Việt Nam thải 156 triệu tấn rơm rạ, bã mía, chỉ tái chế được 10-35%

156 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp thải ra mỗi năm gồm rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, gây ô nhiễm môi trường khi chỉ 10-35% số trên được tái chế.

Thông tin trên được ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nói tại Diễn đàn Nông nghiệp 2025 chiều 16/7.

Theo ông Thịnh, nguồn phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam mỗi năm đạt hơn 156 triệu tấn, gồm rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, vỏ cà phê, chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, tỷ lệ tái chế, tái sử dụng chỉ ở mức 10%, tối đa có ngành được 35%. Lượng phụ phẩm không được tái chế bị thải ra môi trường, gây ô nhiễm.





ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, tại sự kiện. Ảnh: DDDN

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, tại sự kiện. Ảnh: DDDN

Nông nghiệp cũng là ngành phát thải khí CO2e lớn thứ hai, sau năng lượng. Theo cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022, nông nghiệp Việt Nam thải hơn 104 triệu tấn CO2e, chiếm khoảng 18% tổng khí nhà kính cả nước.

Trong khi đó, các loại phụ phẩm đều có giá trị sử dụng. Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch ThaiBinh Seed, cho biết rơm rạ có thể làm thức ăn cho gia súc, phân compost hoặc viên nén sinh khối. Trấu để sản xuất than hoạt tính, vật liệu cách nhiệt, hoặc phân viên. Nước gạo, nước thải trong chế biến có thể xử lý thành dinh dưỡng nuôi cá, men vi sinh cho nông nghiệp sạch. Thậm chí, cám gạo có thể làm nguyên liệu đầu vào cho mỹ phẩm.

Việt Nam đặt mục tiêu tăng tỷ lệ tái chế, tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp lên 70% vào năm 2030, trong các lĩnh vực thế mạnh sản xuất như lúa gạo, cà phê, chăn nuôi.

Thực tế, các doanh nghiệp đang ứng dụng nhiều sáng kiến kinh tế tuần hoàn. ThaiBinh Seed sử dụng trấu làm chất đốt cho nhà máy chế biến, cám để phục vụ ngành chăn nuôi, rơm để sản xuất nấm và phân bón hữu cơ. Ông Báo thêm rằng một số doanh nghiệp Việt đã xuất khẩu rơm thành công sang Hàn Quốc.
Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng tham gia lĩnh vực này. Ví dụ, Lemit Foods Tận dụng vỏ mít chín để sản xuất phân hữu cơ bằng phương pháp nuôi giun, giảm thiểu rác thải nông nghiệp. Họ cũng phát triển bột hạt mít làm sản phẩm thay thế bột ca cao bền vững.

Mặc dù sáng kiến tuần hoàn nông nghiệp nhiều đến mức “đi đâu cũng gặp”, Cục trưởng Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nói tình trạng ứng dụng lại nhỏ lẻ, manh mún, không hình thành được trào lưu, tạo thị trường lớn hay một chuỗi ngành hàng sản phẩm về kinh tế tuần hoàn.

Một số đề án lớn như một triệu ha lúa phát thải thấp, gồm hợp phần xử lý rơm rạ, nhưng gặp hạn chế về dữ liệu. Ví dụ, các doanh nghiệp tham gia đề án thiếu số liệu về trấu, rơm rạ thu về trên mỗi ha trong thực tiễn. Đây là một hạn chế cần khắc phục nhằm phát triển tuần hoàn nông nghiệp, giảm phát thải, góp phần đưa nền kinh tế đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Nói rộng ra, mô hình tuần hoàn cần dựa trên khoa học công nghệ, chuyển đổi số kết hợp xanh, không còn là giai đoạn làm nông kiểu “Vườn – Ao – Chuồng” khi xưa.

Ông Thịnh cũng đề xuất một chiến lược tuần hoàn riêng cho ngành nông nghiệp, thay vì đặt chung cùng ba lĩnh vực công nghiệp, năng lượng tái tạo, vật liệu xây dựng. Thêm vào đó, ông cho rằng cần quan tâm đến việc xây dựng các quy trình, tiêu chuẩn xác nhận sản phẩm trong nông nghiệp tuần hoàn, tăng tính dễ phân biệt với người dùng, đồng thời làm tăng giá trị hàng hóa, qua đó tạo động lực cho doanh nghiệp tham gia.

Chủ tịch ThaiBinh Seed đề xuất thêm cơ chế chuyển giao kỹ thuật cho các doanh nghiệp và hợp tác xã trong hoạt động thu gom, xử lý, tái tạo phụ phẩm từ sản xuất lúa. Ông cũng cho rằng cần ưu tiên nghiên cứu và phát triển giống lúa ngắn ngày, chống chịu tốt với thời tiết cực đoan, giảm phát thải, và có khả năng tạo giá trị từ phụ phẩm.

Thủy Trương