Chỉ số giá tiêu dùng – CPI theo công bố chỉ tăng hơn 3% nhưng chị Hạnh ở TP HCM cho rằng chi phí thực tế của gia đình “đắt đỏ” gấp 10 lần con số ấy.
Chị Hạnh cho hay, dù đã cố gắng tằn tiện trong chi tiêu nhưng do tiền thuê nhà hiện tăng 1,5 triệu mỗi tháng, học phí của con thêm 10%, tiền ăn cũng đắt hơn…, khiến tổng chi mỗi tháng của gia đình tăng gần 32% so với cùng kỳ năm trước.
Không riêng chị Hạnh, nhiều gia đình khác cũng chung tình cảnh. Chị Lâm, nhân viên công ty thực phẩm ở quận 12, cho biết gia đình phải bỏ hẳn thói quen ăn ngoài để dành tiền chi cho điện nước và học phí. “Đi chợ chỉ mua ít rau, thịt cũng tốn hơn 200.000 đồng, trong khi năm ngoái khoảng 120.000 đồng đã đủ một bữa cơm”, chị kể.
Ở góc độ cơ quan thống kê, ông Nguyễn Trung Tiến – Phó cục trưởng Cục Thống kê – cho rằng có sự chênh lệch giữa mức tăng CPI và cảm nhận tăng giá của người dân là hiện tượng phổ biến toàn cầu. Ông dẫn chứng ở châu Âu năm 2022, khi giá khí đốt và lương thực leo thang, CPI tăng 9-10% nhưng hộ gia đình cảm nhận chi phí đội 30-40%. Tại Mỹ, CPI công bố 7-8% song nhiều người cho rằng chi tiêu tăng 20-30%. Nhật Bản cũng chứng kiến hiện tượng tương tự.
Theo ông Tiến, nguyên nhân là người dân thường tập trung vào nhóm chi phí lặp lại hàng ngày như thực phẩm, điện, xăng, nước. Biến động ở nhóm này tạo áp lực mạnh, đặc biệt với hộ thu nhập trung bình và thấp. Trong khi đó, CPI là chỉ số tổng hợp của 752 mặt hàng, tính theo cơ cấu chi tiêu bình quân, nên mức tăng chung thấp hơn nhiều so với cảm nhận.
Không chỉ vậy, CPI còn có độ trễ. Ví dụ, giá xăng tăng giữa tháng thì chỉ số tháng đó chỉ phản ánh một phần vì nửa đầu tháng vẫn theo giá cũ. Bên cạnh đó, rổ CPI không tính đến các chi phí đặc thù như lãi vay mua nhà hay học thêm cho con – vốn là gánh nặng lớn với hộ gia đình thành thị.
Ông Tiến phân tích thêm, cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình cho thấy 7 nhóm chính chiếm tới 86% tổng chi, trong đó thực phẩm và ăn uống (33,5%), nhà ở (18,8%), giao thông (9,7%), giáo dục (6,2%), y tế (5,4%)…
“Bất kỳ biến động giá nào ở những nhóm thiết yếu này đều tác động trực tiếp đến túi tiền người dân”, ông nhấn mạnh. Với nhóm thu nhập thấp, gần như toàn bộ chi tiêu dồn cho hàng thiết yếu. Khi giá nhóm này tăng nhanh hơn mức bình quân, họ không còn dư địa cho chi tiêu khác.
Từ đó, ông cảnh báo chi phí sinh hoạt tăng không chỉ bào mòn thu nhập mà còn khiến nhiều gia đình buộc phải cắt giảm may mặc, đồ gia dụng, du lịch, giải trí. Nếu xu hướng này lan rộng, sức mua xã hội giảm, tác động ngược trở lại sản xuất và việc làm. “Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình chiếm hơn 55% GDP. Nếu sức mua bị nén, có thể tạo vòng xoáy tiêu cực: chi phí sinh hoạt tăng, sản xuất co hẹp, việc làm giảm, dẫn đến tiêu dùng càng suy yếu”, ông nói.
Bổ sung thêm góc nhìn, TS Đinh Thế Hiển phân tích, giá lương thực – thực phẩm và một số dịch vụ dân sinh đã tăng, nhưng chủ yếu do chi phí mặt bằng, quy định thuế mới và sức mua giảm khiến tiểu thương nâng giá để bù lượng hàng bán ế.
“Đây là mức tăng không bền vững, có thể khiến số lượng khách giảm thêm và làm suy yếu sức sống của thị trường”, ông nói. Ngược lại, nhiều nhóm hàng không thiết yếu giữ nguyên giá vì sức mua yếu. Về mặt kỹ thuật, mức CPI tăng 3% giúp duy trì lãi suất thực dương, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn. Nhưng nếu chỉ phản ánh tiêu dùng co hẹp, đó lại là tín hiệu xấu.
TS Nguyễn Đức Độ – Phó viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính – cũng nhấn mạnh rằng cảm nhận của người dân còn chịu ảnh hưởng từ mốc so sánh. “CPI tăng 3% là so với cùng kỳ năm trước, nhưng nếu nhìn từ 2-3 năm, mức tăng đã 6-10%. Người dân thường nhớ giá trong quãng dài hơn, nên cảm nhận mạnh hơn số liệu công bố”, ông phân tích.
Ông lưu ý, CPI bình quân 10 năm qua là 3% mỗi năm, tức giá đã tăng 34% sau một thập kỷ. Nếu lương không tăng tương ứng, sức mua tất yếu giảm. Sau Covid-19, nhiều người mất thu nhập, xu hướng thắt chặt chi tiêu kéo dài, chỉ đến quý II năm nay, tiêu dùng mới bắt đầu hồi phục.

Khách mua hàng tại siêu thị ở TP HCM. Ảnh: Thi Hà
Về phương pháp đo lường, TS Hiển đề xuất Việt Nam cần xây dựng bộ chỉ số chi tiết hơn theo từng khu vực hoặc nhóm hàng, thay vì chỉ có một CPI chung toàn quốc.
“Người dân ở TP HCM, Hà Nội có mức chi tiêu khác hẳn nông thôn, nhưng chúng ta chưa có các tổ chức nghiên cứu độc lập xây dựng chỉ số riêng cho từng nhóm”, ông nói.
Ông Hiển cũng phản đối chính sách “bình ổn giá” với hàng hóa cạnh tranh, cho rằng giá cả cần để thị trường quyết định. Doanh nghiệp sẽ buộc phải cải tiến năng suất, tiết giảm chi phí để tồn tại. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn phải đóng vai trò trong các lĩnh vực hạ tầng độc quyền như giao thông, vận tải, điện lực.
“Câu hỏi đặt ra là các tập đoàn độc quyền này đã quản lý chi phí hiệu quả chưa? Nếu chưa, Nhà nước cần giám sát chặt chẽ để hạ giá thành, qua đó tạo dư địa giảm áp lực cho toàn nền kinh tế”, ông Hiển phân tích.
Nhìn chung, các chuyên gia cho rằng mức lạm phát tăng 3% hiện chưa gây rủi ro cho nền kinh tế. Nhưng điều đáng lo ngại hơn là thu nhập của người dân không theo kịp giá thiết yếu, đặc biệt với nhóm trung bình và thấp.
“Bài toán không chỉ là giữ CPI ở mức thấp, mà quan trọng hơn là bảo đảm thu nhập cải thiện đủ để người dân duy trì mức sống. Nếu không, lạm phát thấp cũng khó giúp họ bớt lo lắng”, TS Nguyễn Đức Độ nói thêm.
Thi Hà – Phương Ánh