Từ IBM đến ruộng tôm Cù Lao – chuyến trở về của một Việt kiều


Sở hữu công ty có doanh thu hàng trăm triệu USD tại Canada cùng hơn 700 bằng sáng chế, đủ để sống sung túc, nhưng ông Nguyễn Thanh Mỹ đã chọn trở về Trà Vinh khởi nghiệp lại, với ước mơ tạo việc làm cho người dân quê.

Trong Người trở về – nơi các trí thức, doanh nhân từng thành đạt ở nước ngoài – chia sẻ về lựa chọn quay về, đóng góp cho đất nước, VnExpress trò chuyện với ông Nguyễn Thanh Mỹ: từ cậu bé bán cà-rem giữa vùng giải phóng, đến tiến sĩ tại Canada và hành trình xây dựng công ty trên chính mảnh đất ông đã ra đi.

Ở tuổi 60, ông lại bắt đầu với nông nghiệp công nghệ cao, mang theo công nghệ, nhân lực và một triết lý: không bán giải pháp cho nông dân mà thiết kế để họ là người thụ hưởng.

NTM

Tên ông gắn liền với làng Thanh Mỹ, Trà Vinh – nơi ông lớn lên cùng vùng quê nghèo khó và mất mát giữa thời chiến. Quá khứ đó đã ảnh hưởng gì đến cách ông sống và lựa chọn sự nghiệp sau này?

Tôi sinh ra tại làng Thanh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Cha tôi mất tích từ khi tôi mới được vài tuổi, mẹ một mình nuôi năm đứa con giữa vùng chiến sự khi mới 24 tuổi. Tôi lớn lên không cha.

Những năm 1960, gia đình tôi sống trong vùng giải phóng, mẹ tôi thường xuyên chở thuốc cho du kích. Đến đầu thập niên 1970, bà bị phát hiện, phải lánh đi nơi khác. Tôi khi đó mới mười mấy tuổi, không cha, vắng mẹ, vừa phải nuôi em, vừa thay mẹ tiếp tế.

Đêm đêm tôi tự bán bánh mì, bán cà-rem. Dưới thùng kem là thuốc kháng sinh, nước biển giấu mang vào vùng giải phóng. Những năm tháng đó khiến tôi thấm thía sự đói nghèo. Tôi nhớ có hôm trời mưa, đứng trú trước cửa nhà người ta, nghe họ bảo con: “Coi chừng thằng bán kem trộm đồ”. Tôi lủi thủi đi ra. Trải nghiệm thời nhỏ khiến tôi cảm nhận khi mình nghèo thì thường bị gán cho những thứ xấu. Nghèo là có tội, là kém cỏi. Đến lúc thi tú tài, khi phát loa đọc tên đậu, có người còn dè bỉu: “Nghèo vậy mà đậu”. Nhưng chính những điều đó khiến tôi luôn muốn vươn lên. Không phải để hơn ai, mà để không bị coi thường. Dần dần, sự quyết tâm thành bản chất con người tôi.

Sau khi tốt nghiệp đại học, bạn bè thì được phân công việc hết, tôi thì không, phải đi đá banh dạo kiếm sống.

Năm 1979, tôi sang Canada cùng người quen, làm bếp, kiếm tiền gửi về cho gia đình. Tôi nhớ một buổi chiều năm 1982, khi đang đứng cắt thịt bò trong bếp, cô bạn sau này là vợ tôi, hỏi: “Ước mơ lớn nhất của anh là gì?”. Tôi nói: “Ngày nào đó, anh sẽ về quê, xây hãng xưởng, tạo công ăn việc làm giúp người trong làng anh có cuộc sống tốt hơn”. Ông đầu bếp đứng gần đó quay sang trêu: “Nổ quá mày ơi!”. Vợ tôi cũng cười, hỏi lại: “Anh có biết mình đang làm bồi bàn không?”. Tôi đáp: “Em hỏi ước mơ thì đó là ước mơ của anh”.

Qua làm 7-8 tháng, kiếm tiền gửi về cho mẹ và đứa em, tôi cũng vui nhưng trong lòng vẫn thấy thiếu. Đứng xiên thịt bò, làm tôm… mình tự hỏi: “Không lẽ liều mạng qua tới đây rồi cứ làm bếp cả đời?”. Rồi khi sang nhà vợ xin đính hôn, gia đình họ ra điều kiện tôi phải có tấm bằng đại học tại Canada để có thể tiến thân.

Ra khỏi nhà vợ, tôi đến thẳng trường đăng ký học. Đó là cái cớ để mình bắt đầu lại, nhưng cũng là điều mình đã nung nấu từ lâu.

– Ông bắt đầu lại từ con số không ở Canada như thế nào – khi vừa học lại vừa phải mưu sinh?

– Tôi học tiếng Anh buổi sáng, làm nhà hàng buổi chiều. Sau bốn tháng, tôi nộp đơn vào Đại học Concordia, học chương trình hóa học phân tích dành cho người trưởng thành. Muốn được vào học chính thức, tôi phải vượt qua kỳ thi tiếng Anh và học lại sáu môn dự bị. May là trước đó tôi từng học đại học ở Việt Nam, nên vẫn nhớ các môn nền tảng.

Tôi chính thức vào đại học năm 1984, hoàn thành cử nhân chỉ trong hai năm, rồi học tiếp lên thạc sĩ và tiến sĩ. Cuối năm 1990, tôi hoàn thành cả ba bậc học. Sau đó tôi làm nghiên cứu ở Trung tâm khoa học vật liệu và năng lượng Canada. Với nhiều bằng sáng chế, tôi được mời vào làm việc ở IBM – công ty nghiên cứu công nghiệp lớn nhất thế giới, San Jose.

Chinh phục 3 bậc học vị ở một ngôn ngữ mới chỉ trong 6 năm, trong khi vẫn làm việc kiếm sống, ông đã làm việc đó bằng cách nào?

Tôi chọn ngành hoá bởi đây là ngành ít người học, tỷ lệ nhận cao, mà nhiều công thức nên đỡ phải đọc quá nhiều tiếng Anh. Khi đăng ký môn, tôi nhồi kín thời khoá biểu. Có hôm học từ 8h30 sáng tới 13h chiều. Chiều làm thí nghiệm từ 14h tới 18h nhưng tôi thường cố làm xong trước một tiếng để kịp tới nhà hàng. Làm bồi bàn đến 1h sáng, tôi cũng ráng thu dọn thật nhanh để xong sớm 15 phút, rồi lao ra xe điện để bắt kịp chuyến cuối cùng về nhà. Về tới nhà khoảng 2h sáng, chạy vào tắm rồi ngồi viết báo cáo thí nghiệm, gần 4h sáng mới được ngủ. Tới 8h lại bật dậy chạy ra tàu để kịp vào lớp.

Tôi không có thời gian để làm đi làm lại như người khác, nên phải nghĩ cách làm một lần là xong, làm đúng ngay từ đầu. Tôi học trực tiếp trên lớp – không ghi chép, chỉ tập trung hết mức để hiểu ngay lúc thầy giảng. Tôi tập trung đến mức có thể thấy được các phân tử “nhảy múa” như thế nào. Khi đã hiểu thì không cần phải học lại. Tôi gọi đó là cách học “thiền”: làm gì thì toàn tâm toàn ý cho việc đó, đầu óc không được trôi chỗ khác.

Với tôi, chỉ cần tiếp thu được 75% bài giảng là đủ đạt mục tiêu. Tôi học không phải để có điểm A+ mà để có tấm bằng, để có cơ hội tốt hơn, thoát khỏi cuộc sống làm nhà hàng. Khi mục tiêu rõ ràng, mình sẽ tự tìm ra đủ cách để vượt qua.

Sau này khi học lên thạc sĩ, tiến sĩ hay khi đã trở thành nhà khoa học với hơn 700 bằng sáng chế tôi cũng áp dụng công thức đó. Gặp việc gì cũng tự hỏi: có cách nào làm nhanh hơn, thông minh hơn không?. Không có thì nghĩ cho ra, có rồi thì làm liền. Làm xong thấy chưa tốt thì nghĩ tiếp, chỉnh tiếp. Mọi thứ cứ thế mà thành.

Ví dụ như năm 1994, từ IBM chuyển sang làm quản lý kỹ thuật cho Kodak Polychrome Graphics, tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu để cải thiện các thông số nhỏ cho máy in (tăng tốc độ, tăng số lượng in, giảm 15% giá thành). Lúc tìm hiểu, tôi phát hiện công nghệ in offset dùng phim rất lãng phí – chi phí phim chiếm tới 65% mà chỉ dùng một lần. Tôi sáng chế công nghệ in bằng laser không cần phim – giải pháp sau đó làm thay đổi toàn ngành in ấn.

Tôi tin rằng mọi thứ đều có thể làm tốt hơn. Nếu chỉ chấp nhận theo những tiêu chuẩn của người khác thì mình không khá hơn được.

– Hoàn thành con đường học vấn, ông bắt đầu gia nhập, thăng tiến ở các công ty lớn trong lĩnh vực nghiên cứu, in ấn hàng đầu thế giới. Điều gì khiến ông quyết định rẽ sang con đường khởi nghiệp?

– Năm 1997, sau chuyến công tác ở Nhật, trên đường về Mỹ, tôi thấy có đường bay tới TP HCM. Bất chợt tò mò, tôi lập tức mua vé hai chiều, bay về Sài Gòn ngay trong đêm. Không có visa vào Việt Nam tôi vẫn thử, nghĩ “không được thì quay lại”. May mắn tôi được phía an ninh tạo điều kiện làm thủ tục tạm thời để nhập cảnh.

Tôi bắt xe về Trà Vinh. Cảm giác rất hỗn độn. Ngay từ khi máy bay đáp xuống khoảng 11h đêm, nhìn từ trên xuống không một ánh đèn nào, tôi bật khóc. Về đến quê, gặp lại mọi thứ mình từng bỏ lại, tôi nhìn quanh thấy người dân vẫn còn nghèo quá, thiếu thốn đủ thứ. Cảm giác đó khiến tôi trằn trọc mãi.

Khi quay lại Mỹ, tôi quyết định phải nghỉ việc để khởi nghiệp. Nếu cứ tiếp tục làm thuê sẽ không thể thực hiện ước mơ quay về. Nhưng lúc đó, khó nhất là dám bỏ. Mình đang có công việc ổn định, được sếp quý, lương cao, sống rất thoải mái. Nghỉ là mất bảo hiểm, mất thu nhập ổn định, vợ con tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng. Tôi cân nhắc rất kỹ, rồi quyết định: khởi nghiệp từ nơi quen thuộc nhất – Canada.

Tôi thành lập công ty American Dye Source (ADS) khi vừa 42 tuổi. Tôi thuê một phòng lab nhỏ, thầy cũ hỗ trợ, bạn bè lúc đó cũng đã thành tiến sĩ, gọi một tiếng là có người giúp. Máy phân tích trị giá vài trăm nghìn đô cũng có thể mượn dùng bất cứ lúc nào, kể cả ban đêm. Nhà cung cấp tôi cũng tận dụng lại được mối quan hệ cũ, thậm chí họ còn cho nợ tới cả tháng. Tôi tiếp tục nghiên cứu vật liệu mới cho in offset CTP – đặc biệt là bột màu ADS380A, giá sản xuất khoảng 60 USD/kg, nhưng bán ra 25.000 USD/kg vì độc quyền.

Công ty phát triển thuận lợi, có được những hợp đồng hàng trăm triệu USD phân phối và chuyển giao công nghệ cho nhiều tập đoàn lớn ở Trung Quốc, Tây Ban Nha, Đài Loan. Sau 2 năm, tôi đã mua thêm một hecta đất để mở rộng công ty.

Cứ như vậy, công việc cuốn đi. Cho tới 2003, vào đúng sinh nhật tôi, đang ăn cơm tối thì bà xã mang bánh sinh nhật ra, nhắc: “Anh còn nhớ ước mơ ngày xưa không? Anh từng nói sẽ về quê, xây dựng nhà máy, tạo công ăn việc làm cho người dân. Tới lúc anh có thể làm rồi”.

Tôi đã nghe lời, quyết định về Trà Vinh, nơi tôi sinh ra, để bắt đầu hành trình mới.

– Ông đã cân nhắc những gì trước khi quyết định về Việt Nam đầu tư?

– Vợ mở đường là sáng hôm sau tôi mua vé máy bay liền, không do dự gì hết. Tôi cũng từng nói với vợ: “Anh mà già thì sống bên này không nổi đâu, lạnh lắm”. Vậy nên khi mọi điều kiện hội tụ: con cái đã lớn, vợ đồng ý và nói sẵn sàng quán xuyến công ty bên đó, tôi yên tâm quay về.

Tôi đi một vòng từ TP HCM về Cần Thơ, Trà Vinh, cũng cân nhắc nhiều nơi như khu công nghệ cao, khu công nghiệp Ô Môn… Nhưng vợ nói một câu mà tôi nhớ mãi: “Nếu trái tim anh mách là phải về quê thì đừng đi đâu khác”. Vậy là tôi xây nhà máy ở Trà Vinh.

Tôi có công nghệ sẵn, khách hàng, giờ chỉ cần sản xuất.

Để có kỹ sư, tôi gọi về Trường Đại học Bách khoa TP HCM, nhờ thầy cũ giới thiệu tôi có ngay 10 kỹ sư sắp tốt nghiệp. Thế là tôi mở công ty, có thể sản xuất được luôn bột màu ADS380A, mặt hàng mà công ty tôi ở Canada độc quyền chuyển giao công nghệ.

– Khi về nước đầu tư trong bối cảnh pháp luật còn mới mẻ, luật Doanh nghiệp chỉ vừa mới ra đời, ông gặp những khăn gì?

– Khó lớn nhất là cách nhìn của nhiều người trong nước. Việt kiều đi đâu cũng bị phân biệt, vào khách sạn cũng trả tiền gấp đôi. Lúc mới về khảo sát, tôi được cán bộ xã mời về trụ sở “xác minh nhân thân”.

Hay khi công ty vận hành được một năm, tôi mở tiệc tất niên, mời lãnh đạo ban ngành đến dự. Kế toán báo cáo lời hơn 3 tỷ. Cứ tưởng minh bạch sẽ được hoan nghênh, ai ngờ vài hôm sau, năm nhân viên của tôi bị mời lên hỏi “sao làm có lời liền?”. Cũng may có anh Trần Hoàn Kim – Chủ tịch tỉnh lúc đó – đứng ra tổ chức một đoàn tham quan để các cơ quan thấy tận mắt dây chuyền sản xuất, kiện hàng 10 kg gửi đi Tây Ban Nha trị giá 8.000 USD – gấp 40 lần giá một tấn lúa. Sản phẩm là vật liệu nhựa hồng ngoại, chi phí sản xuất 57 USD/kg, nhưng bán giá 800 USD vì công nghệ độc quyền. Khách còn phải ký hợp đồng cam kết mua theo năm. Từ đó, mọi người mới hiểu.

Cuối năm 2004, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36, công nhận người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc. Tình hình dần chuyển biến từ đó.

Một khó khăn nữa là nhân sự. Công ty tôi làm công nghệ cao, nên cần lao động kỹ thuật, mà ở Trà Vinh thì thiếu. May là hồi ở Canada, tôi vận động để chương trình tài trợ cho Trà Vinh, giúp nâng cấp Trường Cao đẳng Cộng đồng thành Trường Đại học Trà Vinh. Sau đó, tôi đề xuất mở khoa Khoa Hoá học Ứng dụng – đào tạo chuyên ngành nano và quang điện tử theo mô hình học 8 tháng, làm 4 tháng có lương. Tôi được mời làm trưởng khoa suốt 10 năm. Thời điểm đó, việc một Việt kiều làm trưởng khoa là điều chưa từng có.

Khi đã chọn về, tôi không xem mình là Việt kiều, mà là người Việt. Vấn đề của xã hội là vấn đề của mình. Với tinh thần “muốn ăn thì lăn vào bếp”, tôi tự hợp tác với trường để đào tạo người có chuyên môn mà tôi cần. May mắn là người Việt rất thông minh, chịu khó và luôn có động lực để khá hơn nên đã giúp tôi vượt qua được mọi khó khăn trong những ngày đầu.

– Sau doanh nghiệp đầu tiên – Mylan Group, vì sao ông lại tiếp tục khởi nghiệp ở tuổi 60 và lần này là trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao?

– Khi sống ở Cù Lao, mỗi ngày đi ghe qua sông Cổ Chiên, tôi nhận thấy cây cối quanh nhà úa vàng. Hỏi, tụi nhỏ bảo: “Nước mặn hết trơn, không tưới được”.

Tôi mua thử thiết bị đo độ mặn để kiểm tra, phát hiện nước lúc mặn, lúc ngọt. Tôi nghĩ: sao không làm phao quan trắc tự động, mỗi 15 phút máy sẽ gửi tín hiệu một lần, nước ngọt thì tự động bật máy bơm vào.

Tôi rủ các cháu kỹ sư giỏi từng làm ở Mylan Group cùng khởi nghiệp lại từ đầu. Tụi tôi lập công ty, ba tuần sau đã thả phao quan trắc xuống sông, kết nối được với máy bơm. Từ đó, tôi tài trợ và kêu gọi thêm các đơn vị khác ủng hộ xây mạng lưới hơn 100 trạm quan trắc trên sông ở ĐBSCL với chi phí gần một triệu USD.

Khởi nghiệp nông nghiệp nghệ cao, mục tiêu đầu tiên của tôi là bám sát nhu cầu thật của nông dân để họ giảm rủi ro, bớt phụ thuộc kinh nghiệm mù mờ. Có lần đi thăm trại nuôi tôm kiểu mẫu ở Sóc Trăng, tôi như bị choáng. Quạt oxy quay liên tục, mùi hôi, tiếng ồn như máy xay sinh tố. Hỏi ra mới biết: chỉ 25% oxy tới được tôm, còn lại nuôi… vi khuẩn.

Tôi tra cứu thêm và giật mình khi thấy Việt Nam là nước xuất khẩu tôm đứng thứ ba thế giới, thị trường hàng tỷ USD mỗi năm nhưng cách nuôi còn thủ công, tốn điện, tốn người. Tôi nghĩ: chỉ người giàu mới dám nuôi tôm kiểu này.

Ngoài mục tiêu tối ưu lợi nhuận cho bà con, tôi cũng trăn trở về việc giúp người làm nông đỡ cực nhọc. Tiếp xúc với bà con nhiều, tôi có khái niệm khác về “nông dân”. Người ta thường hiểu nông dân là những ông chủ ruộng, chủ đất, chủ trang trại… sở hữu đất đai, còn những lao động nông thôn, làm thuê lại ít được chú ý. Họ làm việc cực nhọc, không có bảo hiểm xã hội, không được đối xử tử tế. Ví dụ, tôi thấy công nhân nuôi tôm 2-3 tiếng lại phải ngâm mình dưới nước để xử lý chất thải, họ thậm chí còn không có thời gian phơi khô quần áo.

Điều này thôi thúc tôi thiết kế ra các công nghệ mới tối ưu hóa, giảm thiểu lao động thủ công và ô nhiễm. Tôi bắt tay thiết kế mô hình “tôm đạo đức”: tạo oxy từ đáy bể, giảm tiêu hao điện; đáy bể hình nón gom chất thải, xả tự động để người làm không phải ngâm mình. Tôi dùng AI quan trắc nước, đo chỉ tiêu tôm, tự động cho ăn theo đúng kích thước. Tất cả gửi về điện thoại. Mật độ nuôi gấp 4 lần, chi phí giảm 1,5 lần.

Từ đó, hàng loạt ý tưởng khác ra đời: mạng lưới AI dự báo xâm nhập mặn (cả vùng không có phao cũng dùng được), hệ thống giám sát côn trùng tích hợp camera – AI tự nhận diện để không cần phun thuốc. Càng làm càng thấy nông nghiệp còn hàng nghìn việc phải làm, tôi tận dụng công nghệ để giải quyết từng cái một.

Tôi không bán giải pháp cho nông dân. Tôi thiết kế để họ là người được hưởng. Khách hàng của tôi là nhà nước, sở nông nghiệp, doanh nghiệp.

– Ông có nhắc: nhân sự là bài toán khó dù ban đầu đã có sẵn công thức, công nghệ. Vậy khi khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra giải pháp ở lĩnh vực mới, ông đã làm cách nào để đội ngũ của mình có thể đáp ứng được?

– Tôi có một nhóm kỹ sư giỏi – nòng cốt từ thời đầu lập Mylan Group. Họ không chỉ theo tôi sang lĩnh vực mới, mà còn trực tiếp đào tạo thế hệ kế tiếp.

Đa phần họ là người địa phương, học từ Đại học Trà Vinh, sau này thêm Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Cần Thơ. Gần 80% sinh viên tốt nghiệp từ khoa của tôi đều được tuyển dụng vào công ty, giờ toàn là các trưởng nhóm, trưởng bộ phận. Có bạn từng thi đại học được 9/30 điểm, dân tộc Khmer, vậy mà giờ điều hành bộ phận đem về doanh thu lớn nhất công ty.

Tôi không coi họ là nhân viên. Họ là đồng bào, làng xóm. Mỗi người đều hiểu: mình giỏi thì phải làm cho làng mình tốt hơn. Thứ tôi xây không chỉ là công ty, mà là văn hoá. Ai vào đây cũng phải học cách sống minh bạch, sáng tạo, có trách nhiệm với cộng đồng. Muốn tụi nhỏ yêu quê hương, thì mình phải sống như vậy trước. Trường đại học không dạy được cái đó nhưng môi trường làm việc thì dạy được. Và khi nhân viên mình thấy được ý nghĩa từ những thứ mình làm, họ sẽ có động lực thay đổi và gắn bó với công ty

– Là một trong những Việt kiều tiên phong đầu tư từ những ngày đầu, ông nhìn nhận thế nào về cơ hội sắp tới – khi Việt Nam đặt trọng tâm vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân?

– Tôi thấy các nghị quyết và chiến lược của Việt Nam đều rất rõ ràng – từ Quyết định 79 về ngành tôm, Quyết định 749 về chuyển đổi số, đến Nghị quyết 68 lần này. Nhưng thách thức vẫn là khâu thực thi. Chính sách tốt đến đâu mà người thực hiện không có tư duy phục vụ thì vẫn khó thành công.

Nhưng lần này tôi lạc quan. Tôi thấy rõ sự tinh gọn bộ máy, sự chuyển động từ trung ương đến địa phương. Tôi mong nhà nước sẽ tiếp tục tư nhân hoá các lĩnh vực, ví dụ như giao thông, đưa dần về gần cơ chế thị trường thì bộ máy sẽ hiệu quả hơn. So với 20 năm trước, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều.

Với công ty tôi – RYNAN, đây là thời điểm chín muồi để đưa các giải pháp công nghệ đã phát triển suốt 5 năm qua vào ứng dụng thực tế. Ví dụ, nền tảng chuyển đổi số cho nông nghiệp đang được thử nghiệm tại Đồng Tháp, được Bộ Nông nghiệp đánh giá cao. Chúng tôi hy vọng có thể nhân rộng ra nhiều tỉnh thành.

Ngoài ra, những rào cản pháp lý trước đây – như không được thuê phần mềm, không được mua bản quyền công nghệ – nay đã được gỡ bỏ nhờ các nghị định mới. Đấu thầu minh bạch hơn, tiêu chí đánh giá không chỉ là giá rẻ, mà phải xét đến hiệu quả ứng dụng. Tổng Bí thư mới đây cũng nói: đánh giá một gói thầu công nghệ phải dựa vào giải pháp, không phải giá rẻ. Nếu làm được vậy thì các sản phẩm công nghệ Việt Nam – như AI camera chẳng hạn – sẽ có chỗ đứng thay vì phải phụ thuộc hàng giá rẻ nhập khẩu, rồi lo vấn đề dữ liệu chảy ra ngoài.

Tôi mong rằng chính sách mới sẽ ưu tiên hàng Việt, để doanh nghiệp Việt sống được và lớn lên từ nhu cầu thật của đất nước mình.

– Nhìn lại hành trình 20 năm gắn bó với thị trường trong nước, điều gì ông thấy mình đã hiểu đúng ngay từ đầu – và điều gì chỉ có thể hiểu được sau khi thực sự sống ở đây?

– Nếu hỏi nơi nào có cơ hội nhất để đầu tư, tôi sẽ trả lời ngay: Việt Nam. Mấy chục năm trước, tôi về nước đầu tư, ai cũng hỏi “về làm gì?”. Nhưng tôi thấy, ở đây cái gì cũng còn thiếu. Đó là cơ hội.

Giờ thì khác. Việt Nam đã có nền tảng tốt hơn nhiều. Hạ tầng số mạnh, đi đâu cũng có 4G, 5G. Chính sách cởi mở, trường đại học đào tạo ra nhiều người giỏi. Tôi thấy mọi yếu tố cần thiết để làm được đã có.

Thêm một điều quan trọng nữa: đây là nơi cha mẹ mình sinh ra. Tôi từng sống sung túc ở Canada, nhưng cảm giác rất khác. Giờ mỗi sáng ra đường được bà con chào hỏi: “chú Hai khoẻ không?”, được thấy tụi nhỏ ở làng có việc làm, tạo giá trị… điều đó với tôi đáng sống hơn rất nhiều.

Tôi không có thành tựu gì lớn lao. Nhưng nếu phải tìm một ví dụ về Việt kiều về nước và sống được bằng chính năng lực của mình – thì tôi nghĩ, tôi là một ví dụ. Nhỏ thôi, nhưng thật.

Tôi nói với nhiều bạn Việt kiều: nếu từng hòa nhập được ở Mỹ, ở châu Âu thì về Việt Nam cũng cần hoà mình như vậy. Đừng mong đất nước này phải điều chỉnh để vừa với mình. Về thì phải thật: thật lòng, thật tâm, thật lực.

Nếu có lần nào trong đời phải chọn lại, tôi vẫn sẽ chọn trở về.

  • Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ là chuyên gia trong lĩnh vực khoa học năng lượng và vật liệu, sở hữu hơn 700 bằng sáng chế liên quan đến vật liệu in và nông nghiệp công nghệ cao (tính đến năm 2025).

  • Ông từng là nhà nghiên cứu tại Trung tâm IBM Almaden (Mỹ), cộng tác nghiên cứu tại INRS-Energy and Materials (Canada), và giữ vị trí quản lý kỹ thuật tại Kodak Polychrome Graphics (Mỹ).

  • Ông đã nhận gần 20 giải thưởng và bằng khen về phát minh và đổi mới công nghệ từ Việt Nam, Mỹ, Canada và Nhật Bản.

  • Ông khởi nghiệp với American Dye Source Inc (ADS) ở Canada, sản xuất vật liệu in với hai bằng sáng chế quốc tế, đạt tổng doanh thu gần 300 triệu USD trong 20 năm.

  • Trở về Việt Nam, ông sáng lập Mỹ Lan Group – doanh nghiệp công nghệ cao đầu tiên tại Trà Vinh, xuất khẩu vật liệu in đến 76 quốc gia. Ở tuổi 60, ông tiếp tục khởi nghiệp với RYNAN Technologies, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp, thủy sản và môi trường. Tính đến năm 2021, ông đã sáng lập hoặc đồng sáng lập 9 công ty công nghệ.

  • Ông sáng lập, điều hành khoa Hóa học Ứng dụng tại Đại học Trà Vinh, khởi xướng chương trình liên kết đào tạo thực hành giữa sinh viên và doanh nghiệp.

  • Thông qua Quỹ Nguyễn Thanh Mỹ, ông đã tài trợ hơn 62,5 tỷ đồng cho các dự án y tế, giáo dục, xây cầu nông thôn và nhà tình thương (tính đến 2024).

  • Ông từng giữ vai trò Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài (2013–2024), Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các khóa VI, VII và IX.

Nội dung: Thuỳ Ngân – Diễm Hạnh
Video: Lâm Nguyễn – Trung Kiên – Kỳ Anh
Ảnh: Thành Nguyễn
Đồ hoạ: Hoàng Khánh