Thời khắc bản lề cho Đổi mới 2.0

đổi mới - Ảnh 1.
Việt Nam đã từng bước lên bậc thang phát triển nhờ dám đổi mới. Nhưng không có con đường thành công nào lặp lại mãi. Những gì từng là “liều thuốc thần kỳ” trong giai đoạn cất cánh ban đầu nay có thể trở thành rào cản nếu không thay đổi. Bước đi tiếp theo, vì thế, không chỉ cần dũng khí như năm 1986, mà còn đòi hỏi một tầm nhìn thể chế mới để nền kinh tế không chỉ tăng trưởng mà còn phát triển bền vững, công bằng và có khả năng thích nghi trong một thế giới đầy biến động.

TS Vũ Hoàng Linh nhận bằng tiến sĩ về kinh tế ứng dụng tại Đại học Minnesota (Mỹ) vào năm 2008 và hiện là giảng viên Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông có nhiều năm làm việc tại Ngân hàng Thế giới, tham gia tư vấn và nghiên cứu cho nhiều tổ chức trong và ngoài nước trong kinh tế phát triển, kinh tế vi mô ứng dụng…

Nếu Đổi mới lần thứ nhất khởi động quá trình chuyển từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường thì giai đoạn hiện nay đòi hỏi một cuộc chuyển đổi khó hơn: từ tăng trưởng dựa trên các yếu tố sang tăng trưởng dựa trên thể chế và năng suất…

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026, được kỳ vọng sẽ là một dấu mốc cải cách tương tự như Đổi mới 1986.

Tròn 40 năm, sự trùng hợp về thời gian mang ý nghĩa biểu tượng, nhưng điều quan trọng hơn đây là thời khắc mà Việt Nam cần xác lập lại tầm nhìn thể chế cho 20 năm tiếp theo – nhằm hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước.

Đổi mới 1986: Cải cách kinh tế đi liền với cải cách thể chế

Quyết định đổi mới toàn diện tại Đại hội VI năm 1986 không chỉ khởi đầu một chương trình chính sách, mà trước hết là một cuộc cách mạng về tư duy. Sau hàng thập kỷ duy trì mô hình kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế Việt Nam rơi vào trạng thái đình đốn, siêu lạm phát, thiếu hụt trầm trọng về lương thực, hàng hóa và niềm tin xã hội.

Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện tinh thần dũng cảm chính trị khi thừa nhận hạn chế của mô hình cũ và chuyển hướng sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Đây là bước chuyển tư duy sâu sắc: từ duy ý chí sang thực tiễn, từ phủ định thị trường sang chấp nhận nó như một động lực phân phối nguồn lực hiệu quả và từ coi tư nhân là đối tượng cải tạo sang coi đó là một chủ thể phát triển hợp pháp và cần thiết.

Trên nền tảng tư duy mới, hàng loạt cải cách thể chế kinh tế đã được triển khai một cách mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.

Tác động của những cải cách này rất sâu rộng. Chỉ sau một năm, từ chỗ nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới. Việc xóa bỏ bao cấp đã chấm dứt cơ chế phân phối bằng tem phiếu kéo dài hàng thập kỷ.

Các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu vận hành theo nguyên tắc hạch toán lãi lỗ, tự chủ sản xuất – kinh doanh. Cùng với đó, kinh tế tư nhân đã được hợp pháp hóa bằng Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, hàng nghìn doanh nghiệp dân doanh ra đời, hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, trở thành lực lượng bổ sung năng động cho nền kinh tế.

Việt Nam cũng từng bước phá vỡ vòng bao vây đối ngoại, bắt đầu bằng việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 – một bước đi táo bạo, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp với hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Từ đây, FDI trở thành một dòng vốn quan trọng trong phát triển hạ tầng, công nghiệp chế biến và tạo việc làm.

Cùng với các nỗ lực ngoại giao, từ việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), đến thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, EU, và đặc biệt là Hoa Kỳ (1995), Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ hội nhập.

Việc gia nhập ASEAN năm 1995 không chỉ mang ý nghĩa khu vực mà còn là sự khẳng định trở lại tư cách thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1991 – 1995 tăng trưởng trung bình 8,2%/năm – một con số nổi bật trong khu vực châu Á thời hậu Chiến tranh Lạnh. Lạm phát được kéo từ mức ba con số vào cuối thập niên 1980 xuống dưới 15% vào năm 1995, đánh dấu một thành công lớn về ổn định vĩ mô.

Nông nghiệp không những đủ nuôi sống dân số đang tăng nhanh mà còn vươn ra thế giới. Công nghiệp, dù vẫn do doanh nghiệp nhà nước nắm vai trò chủ đạo, đã bắt đầu có những chuyển động tích cực. Đặc biệt, khu vực tư nhân và kinh tế phi chính thức trở thành nơi tạo việc làm chủ yếu cho đại bộ phận dân cư thành thị và nông thôn.

Về mặt thể chế, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận một bước tiến quan trọng: lần đầu tiên công nhận kinh tế tư nhân, quyền sở hữu tài sản, và bình đẳng pháp lý giữa các thành phần kinh tế.

Sự chuyển mình này không đơn thuần là “cởi trói” mà là một quá trình tái thiết lập trật tự kinh tế – pháp lý theo hướng thị trường, đặt nền móng cho mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được chính thức hóa tại Đại hội VII và VIII.

Nếu coi Đổi mới là một “cuộc chuyển hóa thể chế” thì giai đoạn này chính là chương mở đầu.

đổi mới - Ảnh 2.

Hướng đến cải cách thể chế toàn diện 2025 – 2030:

Bốn thập kỷ sau Đổi mới 1986, Việt Nam đã tiến những bước dài, trở thành một nền kinh tế đang phát triển năng động với thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 25 lần so với năm 1990. Tuy nhiên, quá trình phát triển này đang đối mặt với những giới hạn mới.

Thực tế cho thấy những động lực từng mang lại thành công trong giai đoạn đầu – như lao động giá rẻ, dân số vàng, dòng vốn FDI và xuất khẩu tài nguyên – đang dần cạn kiệt hoặc mất lợi thế cạnh tranh. Việt Nam hiện có hơn 100 triệu dân, với khoảng 67% trong độ tuổi lao động, nhưng tỉ lệ sinh đang giảm nhanh và tốc độ già hóa dân số tăng cao.

Dự báo cho thấy thời kỳ dân số vàng của Việt Nam sẽ kết thúc vào khoảng năm 2042, kéo theo áp lực tài khóa, an sinh và thiếu hụt lao động kỹ năng. Năng suất lao động tuy tăng bình quân 5,8%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020 nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với các nước Đông Á: năm 2020, năng suất của Việt Nam chỉ bằng khoảng 36% của Trung Quốc, 24% của Malaysia và chưa đến 8% của Hàn Quốc.

Trong khi đó, khu vực FDI – dù vẫn là động lực tăng trưởng chính – lại có tỉ lệ nội địa hóa thấp, năng lực kết nối với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Phần lớn giá trị gia tăng vẫn nằm ngoài biên giới, phản ánh khả năng hấp thụ công nghệ của nền kinh tế còn yếu.

Cùng lúc, môi trường kinh doanh vẫn chịu nhiều rào cản thể chế. Hệ thống pháp luật thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi và chồng chéo giữa các luật như Đầu tư, Đất đai, Xây dựng, Nhà ở.

Việc một dự án đầu tư cần thông qua hơn 30 loại giấy phép con, do nhiều cơ quan khác nhau cấp phát là biểu hiện của tình trạng “thể chế phân mảnh”, nơi quyền lực bị chia cắt nhưng không kiểm soát lẫn nhau hiệu quả. Tham nhũng vặt vẫn phổ biến ở cấp cơ sở, trong khi các thiết chế giám sát – cả nội bộ và xã hội – còn yếu, thiếu tính độc lập.

Tất cả những điều này khiến doanh nghiệp ngại rủi ro chính sách, e dè đầu tư dài hạn, và làm xói mòn niềm tin vào cam kết cải cách. Trong bối cảnh đó, nếu không có một cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông động lực nội sinh thì những thành quả của Đổi mới trước đây rất dễ bị trì trệ hoặc rơi vào vòng lặp “tăng trưởng thấp – cải cách nửa vời – niềm tin xói mòn”.

Câu hỏi đặt ra là: đâu sẽ là động lực phát triển trong giai đoạn 2025 – 2045, nếu Việt Nam muốn đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, như tầm nhìn đã xác định trong các văn kiện của Đảng và Chính phủ?

Câu trả lời – một cách dứt khoát: cải cách thể chế phải trở thành đòn bẩy trung tâm. Nếu như Đổi mới được phát động từ năm 1986 chủ yếu tập trung “cởi trói” kinh tế, thì cải cách hôm nay đòi hỏi phải kiến tạo một hệ thống thể chế hiện đại, thúc đẩy sáng tạo, minh bạch, và bảo đảm quyền bình đẳng thực chất giữa các chủ thể.

Việt Nam đã và đang có những tín hiệu tích cực. Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đánh giá là văn bản toàn diện và sắc sảo nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực cải cách thể chế kinh tế.

Các chương trình về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và xây dựng chính quyền đô thị cũng mở ra những lối đi mới. Tuy nhiên chừng nào chưa có sự cam kết chính trị ở cấp cao nhất cho một chương trình cải cách thể chế mang tính chiến lược và đồng bộ thì các chuyển động đó vẫn sẽ mang tính cục bộ, phân tán và chưa đủ tạo đột phá.

đổi mới - Ảnh 3.

Đại hội Đảng lần thứ XIV – khát vọng vươn mình

Đổi mới lần thứ nhất năm 1986 đã là cuộc “cởi trói” về tư duy và thể chế kinh tế thì Đổi mới lần thứ hai cần là cuộc cải cách thể chế sâu rộng, nhằm hiện đại hóa mô hình quản trị quốc gia.

Một chương trình cải cách thể chế mang tính tổng thể cần được đưa vào nghị trình chính trị ở tầm cao nhất tại Đại hội XIV. Đây không chỉ là nhu cầu kỹ thuật của chính sách công, mà là một lựa chọn chính trị có ý nghĩa định hướng quốc gia trong 20 năm tới.

Đổi mới 2.0 cần một tầm nhìn được định hình ngay từ các văn kiện Đại hội XIV, với những mục tiêu rõ ràng, có thời hạn thực hiện cụ thể và lộ trình chính sách đi kèm. Việt Nam không thiếu động lực phát triển – mà thiếu cơ chế để động lực đó được phát huy đúng cách.

Đại hội XIV là cơ hội để đặt lại cấu trúc thể chế phù hợp với tầm vóc một quốc gia đang hướng tới vị thế nước thu nhập cao vào năm 2045. Như chính lịch sử Đổi mới 1986 đã chứng minh: khi lựa chọn đúng thời điểm để hành động, kể cả một quốc gia cũng có thể thay đổi số phận.

Những rào cản lớn nhất hiện nay không còn nằm ở nguồn lực vật chất, mà nằm ở khả năng thiết kế và vận hành một hệ thống quản trị nhà nước hiện đại – nơi quyền lực được kiểm soát, trách nhiệm được phân định rõ ràng, và kết quả là thước đo cuối cùng của chính sách.

Những yêu cầu mới của một nền kinh tế sáng tạo, số hóa, carbon thấp và gắn kết toàn cầu đòi hỏi một hệ sinh thái thể chế hoàn toàn khác: linh hoạt hơn, minh bạch hơn, và có khả năng phản ứng chính sách nhanh hơn.

Kinh nghiệm quốc tế – từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore – đều chỉ ra rằng: những cải cách thể chế mang lại đột phá thường được bắt đầu khi quốc gia đối diện với ngưỡng phát triển mới, nơi các “cú hích từ thể chế” trở thành điều kiện cần để đi tiếp.

Trong bối cảnh toàn cầu đầy bất định và cạnh tranh, thể chế sẽ quyết định không chỉ tốc độ tăng trưởng, mà còn chất lượng phát triển và khả năng hội nhập.

Đã đến lúc từ lãnh đạo cấp cao đến bộ máy hành chính và cộng đồng doanh nghiệp phải cùng thống nhất trong quan điểm: Việt Nam cần một tư duy đột phá mới – tư duy thể chế, tư duy minh bạch, và tư duy kiến tạo dài hạn. Trong những thời điểm bản lề, chính tư duy ấy – chứ không phải nguồn lực tài chính hay công nghệ – mới là yếu tố quyết định sự thịnh vượng trong dài hạn của quốc gia.

Ba trục cải cách nên đặt trên bàn nghị sự:

– Thể chế chính quyền đô thị và phân quyền thực chất cho địa phương. Từ ngày 1-7-2025, Việt Nam chính thức vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã), thay thế hoàn toàn cơ cấu ba cấp trước đây sau khi bãi bỏ cấp huyện theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 1-6-2025.

Dù mang tính chuẩn hóa và hiện đại hóa, cơ chế phân cấp hiện nay vẫn chưa phản ánh đúng năng lực và vai trò khác biệt của các địa phương đầu tàu như TP.HCM hay Đà Nẵng.

Các thành phố này cần được nhận sự trao quyền thực chất về ngân sách, linh hoạt trong quy hoạch – đầu tư – tổ chức nhân sự, đồng thời phải chịu trách nhiệm rõ ràng thông qua cơ chế giám sát kết quả, bao gồm đánh giá công khai, báo cáo hiệu quả đầu ra, giám sát của tổ chức chính trị – xã hội và truyền thông.

– Thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước. Dù đã có nhiều tiến bộ trong phòng chống tham nhũng cấp cao, nhưng kiểm soát quyền lực vẫn mang tính hành chính – chưa dựa trên nguyên lý thể chế hiện đại.

Đại hội XIV cần đặt nền móng cho một kiến trúc kiểm soát quyền lực thực chất, bao gồm các cơ chế: giám sát trong Đảng thông qua công cụ độc lập hơn của Ủy ban Kiểm tra; giám sát hành chính thông qua các cơ quan thanh tra; và giám sát xã hội thông qua báo chí, đại biểu dân cử và các thiết chế trung gian. Từng bước chuyên nghiệp hóa các cơ quan lập pháp, kiểm toán, thống kê – và trao quyền nhiều hơn cho các cơ quan này hoạt động độc lập về kỹ thuật.

– Hoàn thiện thể chế thị trường hiện đại. Điều này đòi hỏi phải xử lý các “nút thắt” về sở hữu tài sản (đặc biệt là đất đai), định giá tài sản công, cạnh tranh bình đẳng, và phá vỡ độc quyền hành chính trong cấp phép, đấu thầu, phê duyệt đầu tư. Việc thông qua Luật Đất đai mới, sửa đổi Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách và ban hành luật về quyền tiếp cận thông tin công cần được lồng ghép thành một gói cải cách thể chế.

Ba yêu cầu lớn với thể chế hiện nay

Nhu cầu về một Nhà nước pháp quyền hiện đại, nơi quyền lực hành pháp được minh bạch hóa, lập pháp được chuyên nghiệp hóa và tư pháp thực sự độc lập. Nền tư pháp phải là người trọng tài công minh, không chỉ để bảo vệ quyền sở hữu, mà còn để khuyến khích đầu tư và sáng tạo.

Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả và minh bạch. Giải pháp không thể chỉ dựa vào thanh tra, kiểm tra hay xử lý hành vi, mà phải xây dựng cơ chế thiết kế lại quyền lực theo hướng phân quyền có kiểm soát, kết hợp với các công cụ giám sát độc lập như báo chí, xã hội dân sự và công nghệ số.

Xây dựng thể chế thị trường đầy đủ và hội nhập: khu vực tư nhân trong nước được đối xử bình đẳng, có khả năng tiếp cận nguồn lực (đất, vốn, thông tin) công khai và cạnh tranh.

Hệ thống chính sách công cần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang khung khổ pháp lý dựa trên nguyên tắc để tạo môi trường bình đẳng thay vì ưu đãi có điều kiện. Cùng lúc đó tiếp tục thúc đẩy cải cách trong các lĩnh vực còn “đặc quyền hóa” như đất đai, tài chính công và dịch vụ công.

TP.HCM cần được phân quyền thực chất

TP.HCM sau khi sáp nhập dự kiến sẽ đóng góp khoảng 32% GDP cả nước, và gần 30% thu ngân sách nội địa, nhưng khả năng tự quyết về đầu tư công, quy hoạch và tài chính lại rất hạn chế. Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định ngân sách TP.HCM là ngân sách cấp tỉnh, phải xin ý kiến trung ương cho hầu hết các dự án lớn, kể cả ODA.

Một ví dụ cụ thể: Tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên khởi công từ năm 2012 nhưng nhiều lần bị chậm tiến độ do phải xin điều chỉnh tổng mức đầu tư từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính, dù thành phố là chủ đầu tư.

Tương tự, ngân sách giữ lại của TP.HCM khoảng 21%, thấp hơn đáng kể so với Hà Nội (32%) hay so với các thành phố lớn ở các nước theo mô hình phân quyền. Trong khi đó hạ tầng đô thị, giao thông công cộng, cải tạo kênh rạch đều đang quá tải nghiêm trọng.

Tình huống TP.HCM phản ánh rõ yêu cầu phân quyền thực chất trong thể chế quản trị đô thị đặc biệt – nơi chính quyền địa phương cần có không gian tài khóa, quy hoạch và đầu tư tương xứng với vai trò đầu tàu.