Hà Lan muốn nâng tỷ lệ thu gom chai nhựa qua hệ thống cọc tiền lên 90%, thay vì mức 77% hiện nay qua triển khai các cửa hàng thu gom – hoàn vỏ chai, lon số lượng lớn.
Bé Mariama Kamara bước vào cửa hàng hoàn vỏ Statiegeld (nghĩa là “cọc tiền” trong tiếng Hà Lan) trên phố Nieuwezijds Voorburgwal, Amsterdam, với ba túi lớn đựng 350 chai nhựa và lon. Kamara đang thực thi nhiệm vụ hoàn vỏ được người dì – một chủ nhà hàng giao phó. Trong 7 phút, cô bé nhận lại 50 euro (1,5 triệu đồng).
Đây là một trong hai cửa hàng flagship dành riêng cho hoạt động hoàn vỏ tại trung tâm Amsterdam. Mô hình cửa hàng này mới được Verpact, tổ chức chịu trách nhiệm quản lý chất thải bao bì (PRO) của Hà Lan, đưa vào hoạt động từ tháng 5 nhằm tăng tỷ lệ thu hồi chai, lon. Trước đó, hoạt động hoàn vỏ, trả cọc chủ yếu được thực thi qua máy gom tích hợp tại các cửa hàng tiện lợi, siêu thị, trường học.
Hà Lan vận hành chương trình đặt cọc – hoàn trả (Deposit-Return System – DRS) từ năm 2006. Người dân mua hàng hóa có bao bì nhựa, thủy tinh, lon nhôm phải trả thêm 15-25 cent, sau đó nhận lại tiền khi hoàn vỏ. Số tiền từ chai, lon không được hoàn sẽ được dùng để mở rộng chương trình.
Tính đến tháng 9/2024, quốc gia này có hơn 5.000 điểm trả vỏ hoàn tiền cùng 23.000 điểm thu gom chai, lon, tự nguyện, chấp nhận tiền cọc như một khoản quyên góp.

Người dân hoàn vỏ tại một cửa hàng Statiegeld. Ảnh: The Guardian
Mặc dù vận hành 20 năm, tỷ lệ thu gom của Hà Lan mới ở mức 77% với chai nhựa và 84% lon nhôm. Mức này cách xa mục tiêu 90% chai nhựa được thu gom qua kênh chính thức mà nước này đặt ra cho ngành công nghiệp đồ uống.
Một trong những lý do cho tỷ lệ thu gom thấp là vị trí đặt máy gom. Các máy này thường được đặt tích hợp với cửa hàng tạp hóa hoặc siêu thị, với kỳ vọng lưu lượng khách đông đảo mua sắm sẽ tỷ lệ thuận với hoạt động trả vỏ. Tuy nhiên, một số chuỗi cửa hàng, siêu thị không chấp nhận hoàn thương hiệu họ không bán, ví dụ chuỗi siêu thị Lidl không cho hoàn trả chai Coca-Cola.
Ngoài ra, việc tham gia chương trình DRS tại Hà Lan thực hiện theo tinh thần tự nguyện với các cửa hàng tiện lợi. Tức là, các cửa hàng nhỏ không buộc bố trí máy trả vỏ, giảm mật độ điểm trả trong chương trình.
Thêm vào đó, các máy gom thường có quy mô nhỏ để tiện tích hợp tại các điểm bán lẻ, buộc người dùng phải thao tác nhiều lần. Trước đây, Kamara – cô bé vừa hoàn 350 vỏ – phải trả từng chai, lon tại 3 siêu thị gần nhà ở Amsterdam. “Công việc tẻ nhạt và đau lưng”, Kamara nhớ lại.
Để giải quyết vấn đề này, một vài máy thu gom lô lớn được đưa vào vận hành từ năm ngoái, với công suất xử lý tới 100 vỏ cùng lúc. Tại cửa hàng Statiegeld, công suất xử lý một lần tăng gấp đôi, kỳ vọng cải thiện tỷ lệ thu gom. Trước Amsterdam, cửa hàng Statiegeld đầu tiên trên cả nước được đặt tại thành phố Rotterdam. Tính đến nay, riêng cửa hàng này gom được hơn một triệu vỏ.

Một cửa hàng Statiegeld flagship trước thời điểm khai trương. Ảnh: Statiegeld Hà Lan
Các cửa hàng Statiegeld thường được đặt tại vị trí trung tâm, thu hút những người muốn bỏ rác bao bì, doanh nghiệp địa phương, khách du lịch tò mò và cả những người nghèo chuyên gom vỏ để đổi lấy bữa ăn. Verpact cũng tổ chức một số trạm thu vỏ di động đặt tại các điểm lễ hội lớn, để người tham gia tiện hoàn vỏ đồ uống.
Sau thu gom, vỏ chai, lon sẽ tiếp tục được phân loại, làm sạch và tái chế thành nguyên liệu thô mới để bán lại cho doanh nghiệp sản xuất. Ví dụ, chai nhựa PET (polyethylene terephthalate) được tái chế thành nguyên liệu dùng làm các chai PET mới. Hà Lan yêu cầu trong năm nay, 25% vật liệu của một chai PET phải là tái chế.
Hester Klein Lankhorst, Giám đốc điều hành Verpact, coi DRS này là một phương thức giúp Hà Lan đạt mục tiêu thu gom đầy tham vọng. Chương trình là một phần trong quy định trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR), ràng buộc nghĩa vụ thu gom và tái chế bao bì với doanh nghiệp đưa sản phẩm đóng gói ra thị trường. Bên cạnh thúc đẩy tái chế, chương trình cũng góp phần giảm lượng rác thải thành phố, với tỷ lệ chai, lon lẫn trong thùng rác giảm 69%.
Mặc dù vậy, Martin Calisto Friant, chuyên gia từ tổ chức phi lợi nhuận Kinh tế tuần hoàn (Circle Economy), cho rằng chi phí cọc tiền thấp là một hạn chế của hệ thống DRS Hà Lan. Mức này không khuyến khích việc giảm tiêu thụ, vốn nên được coi là giải pháp chính trong quản lý rác nhựa. “Chi phí cọc là chính sách quan trọng nhất nên được tập trung ngay từ đầu”, ông nói.
Giám đốc điều hành Verpact cho rằng không có “viên đạn bạc” nào để giải quyết rác nhựa. Nhưng ông Lankhorst nhìn nhận chương trình DRS giúp mọi người dễ dàng lấy lại tiền đặt cọc và thải bỏ chai, lon đúng cách hơn.
Chương trình đặt cọc – hoàn trả (DRS) phổ biến tại châu Âu, được thực thi đầu tiên ở cấp quốc gia vào năm 1984, ở Thụy Điển. Ngoài Thụy Điển và Hà Lan, DRS hiện được áp dụng tại 15 nước khác gồm Na Uy, Đức, Ireland.
Bảo Bảo (theo The Guardian)