
Công nhân kỹ thuật làm việc tại nhà máy Công ty TNHH Hana Micron Vina (Bắc Ninh) – Ảnh: GIANG SƠN ĐÔNG
Bộ Tư pháp đang thẩm định dự thảo nghị định quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, do Bộ Nội vụ chủ trì.
Nếu không tăng, lương tối thiểu sẽ thấp hơn khoảng 6,6% so với nhu cầu tối thiểu
Cụ thể, Bộ Nội vụ đề xuất tăng lương tối thiểu vùng 7,2% từ 1-1-2026, trùng với khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia, tương đương 250.000 – 350.000 đồng mỗi tháng tùy vùng. Với mức tăng này, lương tối thiểu sẽ cao hơn khoảng 0,6% so với mức sống tối thiểu năm 2026.
Cụ thể, vùng 1 là 5,31 triệu đồng/tháng, vùng 2 là 4,73 triệu đồng/tháng, vùng 3 là 4,14 triệu đồng/tháng và vùng 4 là 3,7 triệu đồng/tháng.
Lương tối thiểu giờ cũng điều chỉnh gồm vùng 1 là 25.500 đồng/giờ, vùng 2 là 22.700 đồng/giờ, vùng 3 là 20.000 đồng/giờ và vùng 4 là 17.800 đồng/giờ.
Bộ Nội vụ đánh giá lương tối thiểu quy định tại Nghị định 74 không còn đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Từ năm 2024 đến nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng đều hằng năm, làm giá trị thực tế của lương tối thiểu suy giảm.
Với dự báo CPI tăng 3,7% mỗi năm trong giai đoạn 2025 – 2026, đến cuối năm 2026, tiền lương tối thiểu sẽ thấp hơn khoảng 6,6% so với nhu cầu tối thiểu.
Nếu giữ nguyên lương tối thiểu như hiện tại sẽ gây khó khăn lớn cho người lao động, làm tăng nguy cơ tranh chấp lao động, không khuyến khích được người lao động nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh…
Cá biệt, việc duy trì lương tối thiểu như hiện nay có thể gây bức xúc trong nhóm hưởng lương thấp, tiềm ẩn phát sinh tranh chấp lao động.
Ngược lại, tăng lương giúp người lao động có thêm thu nhập trang trải cuộc sống, ổn định quan hệ lao động khi kinh tế tăng trưởng tốt.
Tăng lương tối thiểu sẽ tác động ra sao?
Bên cạnh đó, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, xã từ ngày 1-7-2025, hiện lương tối thiểu gắn với địa bàn từng huyện, sau điều chỉnh địa giới, nhiều nơi có mức sống thay đổi nên cần cập nhật lại.
Trong khi đó, chuyên gia của Bộ Nội vụ cho biết nếu tăng lương 7,2% thì tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp không lớn. Ví dụ, ngành dệt may, da giày tăng khoảng 1,1% – 1,2%, mức hài hòa lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp.
Mức lương tối thiểu giờ tương đương mức lương thấp nhất được trả cho các công việc không trọn thời gian (phục vụ nhà hàng, quán ăn, quán cà phê…). Vì vậy, về cơ bản không làm tăng chi phí hay khả năng chi trả của doanh nghiệp (đa phần trả bằng hoặc cao hơn).
Việc tăng lương bình quân 7,2% vừa bảo đảm đời sống tối thiểu, vừa duy trì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh các ngành sản xuất, dịch vụ đang cần nhân lực ổn định để phát triển.
Do vậy, Bộ Nội vụ đề xuất Chính phủ lựa chọn phương án tăng lương tối thiểu vùng 7,2% từ ngày 1-1-2026, đồng thời cập nhật địa bàn áp dụng để bảo đảm cân đối giá nhân công giữa các địa bàn lân cận, tăng tính cạnh tranh về việc làm, thu hút lao động, thúc đẩy tăng trưởng địa phương.
Danh sách điều chỉnh địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu:
– Sửa tên phường Hoàng Văn Thụ (tỉnh Lạng Sơn) thành phường Kỳ Lừa;
– Điều chỉnh từ vùng 2 lên vùng 1 đối với các phường (thuộc TP Hải Phòng): Chu Văn An, Chí Linh, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Lê Đại Hành, Kinh Môn, Nguyễn Đại Năng, Trần Liễu, Bắc An Phụ, Phạm Sư Mạnh, Nhị Chiểu và các xã Nam An Phụ, Nam Sách, Thái Tân, Hợp Tiến, Trần Phú, An Phú, Cẩm Giang, Cẩm Giàng, Tuệ Tĩnh, Mao Điền, Kẻ Sặt, Bình Giang, Đường An, Thượng Hồng, Gia Lộc, Yết Kiêu, Gia Phúc, Trường Tân, Tứ Kỳ, Tân Kỳ, Đại Sơn, Chí Minh, Lạc Phượng, Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Phú Thái, Lai Khê, An Thành, Kim Thành.
– Điều chỉnh từ vùng 3 lên vùng 2 đối với các phường Hoàng Mai, Tân Minh (tỉnh Nghệ An); các phường Đông Hà, Nam Đông Hà (tỉnh Quảng Trị); các phường Phan Rang, Đông Hải, Ninh Chử, Bảo An, Đô Vinh và các xã Thuận Bắc, Công Hải (tỉnh Khánh Hòa).
– Điều chỉnh từ vùng 3 lên vùng 2 đối với các xã Thanh Hà, Hà Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Đông, Ninh Giang, Vĩnh Lại, Khúc Thừa Dụ, Tân An, Hồng Châu, Thanh Miện, Bắc Thanh Miện, Nam Thanh Miện, Hải Hưng (TP Hải Phòng).
– Điều chỉnh từ vùng 4 lên vùng 3 đối với phường Quảng Trị và các xã Đồng Lê, Vĩnh Linh, Cửa Tùng, Bến Quan, Cửa Việt, Gio Linh, Cam Lộ, Khe Sanh, Lao Bảo, Triệu Phong, Hướng Hiệp, Diên Sanh (tỉnh Quảng Trị) cùng các xã Ninh Sơn, Lâm Sơn, Anh Dũng, Mỹ Sơn, Thuận Nam, Cà Ná, Phước Hà (tỉnh Khánh Hòa).
– Điều chỉnh từ vùng 1 xuống vùng 4 đối với các xã Kỳ Thượng, Lương Minh (tỉnh Quảng Ninh).
– Điều chỉnh từ vùng 3 xuống vùng 4 đối với các xã Thượng Trạch, Trường Sơn, Kim Ngân (tỉnh Quảng Trị).