‘Nâng chất lượng lao động trẻ thay vì tăng tuổi hưu lên 65’

Các chuyên gia cho rằng thay vì kéo dài tuổi nghỉ hưu lên 65, Việt Nam nên tập trung nâng cao năng suất và kỹ năng của lực lượng lao động trẻ để tạo nền tảng tăng trưởng bền vững.

Tại phiên thảo luận kinh tế – xã hội ngày 30/10, GS Nguyễn Thiện Nhân đề xuất Nhà nước sớm có lộ trình tăng tuổi hưu lên 65 trước năm 2035, giúp đất nước mỗi năm có thêm khoảng 5 triệu lao động, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng 10% mỗi năm. Ông cũng kiến nghị trước năm 2030 có đề án cải cách toàn diện bảo hiểm xã hội để những người về hưu có “mức sống đàng hoàng”.

Tuổi nghỉ hưu của lao động Việt Nam thực tế đang tăng theo lộ trình từ năm 2021, mỗi năm thêm 3 tháng với lao động nam, 4 tháng với lao động nữ, cho tới khi nam đạt 62 tuổi vào năm 2028 và nữ đạt 60 tuổi vào năm 2035. Lao động có trình độ chuyên môn và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn; ngược lại người suy giảm khả năng lao động, làm nghề nặng nhọc được nghỉ ở tuổi thấp hơn, với điều kiện không quá 5 năm so với quy định.

Người lớn tuổi khó duy trì sức khỏe làm việc

GS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp của Đại học Kinh tế Quốc dân, đánh giá tuổi hưu tăng theo lộ trình như hiện nay là hợp lý. Việc tiếp tục nâng lên 65 “cần tính toán từng bước thận trọng”, cân nhắc từ yếu tố vĩ mô như thị trường lao động, ngành nghề, tới yếu tố cá nhân như sức khỏe, mong muốn, khả năng thích ứng. “Nâng tuổi hưu có thể thêm số lượng lao động nhưng không đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi mục tiêu tăng trưởng được đặt ở mức cao”, ông nói.





GS Giang Thanh Long có nhiều năm nghiên cứu về các vấn đề dân số, khía cạnh kinh tế của già hóa dân số, an sinh xã hội. Ảnh: Gia Chính

GS Giang Thanh Long có nhiều năm nghiên cứu về các vấn đề dân số, khía cạnh kinh tế của già hóa dân số, an sinh xã hội. Ảnh: Gia Chính

Theo GS Long, dữ liệu Khảo sát lao động việc làm giai đoạn 2010-2023, bỏ qua giai đoạn 2020-2022 do ảnh hưởng Covid-19, cho thấy tỷ lệ lao động năng suất có xu hướng giảm từ gần 86% xuống 78%. Đây là nhóm có thu nhập cao hơn lương tối thiểu theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), và tính toán dựa trên mức lương tối thiểu cao nhất từng giai đoạn.

Trong các yếu tố có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ lao động ở độ tuổi cao lại tác động tiêu cực đến năng suất, tức càng nhiều người lớn tuổi thì tỷ lệ lao động năng suất càng giảm. Nếu chỉ thuần túy nâng tuổi hưu có thể tăng số lượng lao động nhưng không đảm bảo yếu tố năng suất – vốn là thành phần quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, trong bối cảnh doanh nghiệp ngày càng đẩy mạnh số hóa, việc kéo dài tuổi hưu có thể khiến thất nghiệp ở nhóm lao động cao tuổi gia tăng do họ không thích ứng được với công việc mới.

“Quan trọng hơn là người lao động có mong muốn tăng tuổi hưu và sức khỏe có cho phép họ đảm bảo được công việc hay không?”, ông đặt vấn đề, dẫn số liệu ba cuộc khảo sát quốc gia về người cao tuổi (trên 60 tuổi) cho thấy 55% trong số này nói muốn làm việc nhưng không thể vì sức khỏe. Tuổi thọ trung bình tăng nhưng “tuổi thọ khỏe mạnh” lại không cải thiện đáng kể: trung bình người cao tuổi Việt Nam sống thêm 22,4 năm sau khi nghỉ hưu, trong đó có tới 5,7 năm sống trong bệnh tật.

Chung quan điểm, TS Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, cho rằng điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là chủ trương lớn được đặt ra trong bối cảnh dân số Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa nhanh, trong khi nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu và chưa sử dụng hiệu quả. Mục tiêu của chính sách là cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội, tận dụng kinh nghiệm, trí tuệ của lao động lớn tuổi và tiệm cận xu hướng quốc tế.

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh mỗi quốc gia có đặc thù riêng, cần căn cứ vào điều kiện sức khỏe, nghề nghiệp và cơ cấu lao động thực tế, không thể máy móc áp dụng cho tất cả. “Phần lớn lao động Việt Nam làm việc với cường độ cao, môi trường áp lực lớn, đặc biệt ở khối sản xuất. Khảo sát trước đây của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy 60% nam và 70% nữ nói sức khỏe giảm rõ rệt sau tuổi 55. Người làm trong lĩnh vực dệt may, khai khoáng, vận tải rất khó đảm đương công việc nếu kéo dài tuổi hưu”, ông nói.

TS Lợi cho rằng tiếp tục nâng tuổi hưu có thể dẫn đến nhiều hệ lụy: người lớn tuổi không đủ sức làm việc hiệu quả, gây tắc nghẽn cơ hội việc làm cho lớp trẻ, nhất là trong khu vực công. Đồng thời, tăng tuổi hưu sẽ làm chậm quá trình đổi mới công nghệ, chuyển đổi nghề nghiệp, khiến nhóm trung niên có nguy cơ thất nghiệp cao khi doanh nghiệp muốn trẻ hóa đội ngũ. Về mặt xã hội, chính sách này còn có thể gây tâm lý bức xúc, lo ngại cho công nhân, đặc biệt là nữ giới – những người gánh vác nhiều trách nhiệm gia đình.





TS Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội. Ảnh: VGP

TS Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội. Ảnh: VGP

Tăng năng suất thay vì tăng tuổi hưu

Bà Phạm Thu Lan, nguyên Viện phó Viện Công nhân – Công đoàn, đặt vấn đề: Tăng tuổi nghỉ hưu có thực sự là giải pháp cần thiết trong bối cảnh ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số? Việc tiếp tục nâng tuổi hưu đồng nghĩa tăng trưởng vẫn dựa vào sức lao động – điều này không khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học vào sản xuất và khiến Việt Nam khó cạnh tranh với các nền kinh tế khác.

“Mục tiêu tăng trưởng hai con số có thể đạt bằng nhiều cách chứ không thể dựa vào tăng tuổi hưu; không đảm bảo sức khỏe mà vẫn ngồi lại có thể gây nhiều hệ lụy”, bà nói.

GS Giang Thanh Long góp ý rằng để đạt tăng trưởng cao, cần tập trung đào tạo kỹ năng, kiến thức và công nghệ cho lực lượng lao động trẻ đang gia nhập thị trường, thay vì kéo dài tuổi hưu ở nhóm lớn tuổi. Ông nhấn mạnh Việt Nam đang trong giai đoạn “dân số vàng”, với lực lượng lao động trẻ đang tăng mạnh mẽ.

Theo dự báo dân số, thế hệ Y và Z – những nhóm có khả năng tiếp nhận nhanh công nghệ mới và đủ thời gian để thẩm thấu, nâng cao năng suất – sẽ chiếm tỷ lệ cao nhất trong lực lượng lao động Việt Nam trong 30 năm tới. Tận dụng tốt nhất nhóm dân số này không chỉ đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội mà còn giúp Việt Nam chuẩn bị tốt hơn cho giai đoạn dân số già.

Ông cũng nêu thách thức khi hiện có khoảng 11,6 triệu thanh niên không có việc làm, không tham gia đào tạo, và con số này có xu hướng tăng cả về tỷ lệ lẫn quy mô. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng chậm, mới đạt 29%. Cấu trúc ngành nghề vì vậy cần chuyển dịch sang các nhóm có giá trị gia tăng cao nhờ kết hợp kỹ năng và công nghệ cao, thay vì chỉ tạo việc làm ở khâu thấp nhất như gia công trong chuỗi cung ứng. “Đó là một trong nhiều cách tận dụng nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng nhanh nhất”, ông Long nhấn mạnh.

TS Bùi Sỹ Lợi bổ sung rằng nếu trong những năm tới buộc phải điều chỉnh tuổi hưu, thì cần “phân loại nhóm và thực hiện linh hoạt”. Lao động trí óc, khoa học, quản lý, giáo dục, y tế… có thể làm việc đến 65 tuổi hoặc hơn nếu đủ sức khỏe và tự nguyện, trong khi người làm trong dây chuyền công nghiệp nên nghỉ sớm ở tuổi 50-55 mà vẫn hưởng đầy đủ quyền lợi bảo hiểm xã hội.

“Về lâu dài, Nhà nước cần tính tới việc để người lao động được quyền lựa chọn nghỉ sớm hoặc muộn trong giới hạn nhất định để bảo đảm công bằng, nhân văn”, ông nói, thêm rằng trước mắt cần cải thiện môi trường làm việc, tăng sức khỏe nghề nghiệp và tạo sự đồng thuận để chính sách đi vào cuộc sống hiệu quả, bền vững.

Theo thống kê, tuổi nghỉ hưu trung bình của lao động Việt Nam tăng từ 55,8 tuổi năm 2016 lên 56,6 tuổi năm 2022, một phần nhờ chính sách nâng tuổi hưu theo lộ trình. Bình quân lao động nữ nghỉ hưu ở tuổi 54,4 và nam 58,7. Cả nước có gần 3,4 triệu người hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa đạt 75% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm – thuộc nhóm cao nhất Đông Nam Á, song mức hưởng thực tế vẫn trung bình do tiền đóng còn thấp. Năm 2024, lương hưu bình quân đạt khoảng 6,2 triệu đồng/tháng.

Hồng Chiêu