Hỗ trợ học nghề cho lao động thất nghiệp ‘có cũng như không’

Bên cạnh tiền trợ cấp được cho là thấp, chính sách đào tạo nghề miễn phí cho lao động thất nghiệp hầu như không đem lại hiệu quả, có cũng như không.

Sau khi lướt danh sách các nghề được đào tạo miễn phí tại Trung tâm Dịch vụ việc làm TP HCM, anh Nguyễn Minh Thông, 42 tuổi, nhận xét “không có nghề nào phù hợp với mình”.

Anh Thông là tài xế cho một doanh nghiệp FDI nhưng vừa mất việc do công ty chuyển sang thuê đơn vị ngoài. Trong thời gian chờ việc mới, anh đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp. Với mức lương đóng bảo hiểm 11 triệu đồng, tương ứng thu nhập thực tế, mỗi tháng anh nhận được 6,6 triệu đồng. Sống độc thân, chi tiêu không nhiều, anh cho rằng khoản này “cũng tạm ổn”, và từng tính đến việc học nghề nếu thấy phù hợp.





Anh Nguyễn Minh Thông chờ làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm. Ảnh: Lê Tuyết

Anh Nguyễn Minh Thông chờ làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm. Ảnh: Lê Tuyết

Theo quy định của Luật Việc làm 2013, người lao động mất việc sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 60% mức lương bình quân của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ và được hỗ trợ học nghề. Thời gian học tối đa 6 tháng, với mức hỗ trợ không quá 1,5 triệu đồng/tháng, nhằm giúp người lao động nâng cao kỹ năng, sớm quay lại thị trường lao động.

Tuy nhiên, sau khi xem kỹ danh mục đào tạo, anh Thông nói chỉ có khóa học lái xe bằng B2 là phù hợp, trong khi bản thân đã có bằng. Các nghề còn lại như cắt tóc, làm móng, may mặc, trang điểm, nấu ăn… theo anh “chỉ hợp với nữ”. Những nghề như điện công nghiệp, tin học văn phòng thì “học xong khó tìm việc tốt hơn làm tài xế”.

“Lúc đầu tôi nghĩ nếu có nghề nào tốt hơn công việc cũ sẽ đăng ký học, nhưng xem xong thì thôi”, anh nói và cho rằng nếu một người chỉ học hết tiểu học như mình còn không thấy phù hợp thì những lao động trình độ cao đẳng, đại học càng khó tiếp cận với chính sách.

Trường hợp như anh Thông không phải cá biệt. Dù được xem là một trong những quyền lợi quan trọng đi kèm trợ cấp thất nghiệp, chính sách hỗ trợ học nghề nhiều năm qua không phát huy hiệu quả. Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong 3 tháng đầu năm nay, cả nước có hơn 118.000 người nhận trợ cấp thất nghiệp nhưng chỉ 3.081 người đăng ký học nghề, chiếm 2,6%.

Tại TP HCM, thống kê của cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố, tỷ lệ này cũng rất thấp. Năm 2020, thành phố có hơn 188.000 người hưởng trợ cấp thất nghiệp, nhưng chỉ gần 6.000 người học nghề (3,1%). Đến năm 2023, với hơn 162.000 người nhận trợ cấp, số học nghề chỉ hơn 1.000 người, tức chưa đến 1%.

Ông Trần Dũng Hà, Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội TP HCM, cho rằng chính sách hỗ trợ học nghề hiện nay còn nhiều bất cập, khiến người lao động không mặn mà. Một trong những nguyên nhân là hầu hết khóa đào tạo đều ở trình độ sơ cấp, tức chỉ dạy kiến thức cơ bản. Sau khi học, người lao động khó tìm được công việc mới có thu nhập tốt hơn nghề cũ.

Báo cáo Bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam: Thực tiễn và khuyến nghị chính sách do chuyên gia kinh tế Clemente Pignatti thực hiện cùng ILO Việt Nam cũng nêu các nguyên nhân khiến tỷ lệ học nghề thấp. Trong đó có việc: nội dung đào tạo chưa sát nhu cầu thực tế; kỹ năng dạy không đúng với yêu cầu doanh nghiệp; người lao động thiếu niềm tin vào chất lượng các cơ sở đào tạo; và khó tiếp cận đào tạo trung cấp, cao đẳng – vốn là các trình độ giúp chuyển đổi nghề nghiệp – do yêu cầu đầu vào nghiêm ngặt.

Theo ông Trần Dũng Hà, Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội TP HCM, thành công của chính sách hỗ trợ học nghề không nên đo bằng số lượng người tham gia mà bằng chất lượng tay nghề sau đào tạo và mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường.

“Quan trọng là tay nghề người lao động có nâng lên không, thị trường cần nghề đó không và doanh nghiệp sẵn sàng tuyển không?”, ông nói. Hiện nay, nhiều lớp dạy nghề vẫn tổ chức theo khả năng cung ứng của trường nghề liên kết, chưa dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường và người học.

Theo ông Hà, thay vì chỉ tập trung dạy nghề mới – vốn không hấp dẫn – chính sách nên mở rộng sang hướng nâng cao năng lực, trình độ tay nghề. Các ngành nghề đào tạo cần xuất phát từ nhu cầu thị trường hoặc đặt hàng cụ thể từ doanh nghiệp.

Về mặt tài chính, ông cho rằng mức hỗ trợ học nghề hiện nay – cố định 1,5 triệu đồng mỗi tháng, tối đa 6 tháng – chưa phù hợp. “Mức này chỉ đủ cho khóa sơ cấp. Người học cao đẳng, đại học nếu học thêm chỉ mang tính chất ‘cho biết’, không thực sự cải thiện chất lượng nguồn nhân lực”, ông nhận định.

Để tăng hiệu quả, ông Hà đề xuất mức hỗ trợ nên căn cứ theo học phí, điều kiện địa phương và có thể ràng buộc bằng cam kết. Nếu học viên không hoàn thành khóa học, có thể phải hoàn trả chi phí nhằm tránh tình trạng trục lợi.





Người lao động nộp hồ sơ, làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM, quận Bình Thạnh, tháng 6/2025. Ảnh: Quỳnh Trần

Người lao động nộp hồ sơ, làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm TP HCM, quận Bình Thạnh, tháng 6/2025. Ảnh: Quỳnh Trần

Ông Nguyễn Văn Hùng, từng phụ trách công tác đào tạo tại một công ty cơ khí ở huyện Bình Chánh, cho rằng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề nhằm giữ chân lao động tuy có nhưng khó tiếp cận. Theo quy định, mỗi lao động được hỗ trợ tối đa một triệu đồng mỗi tháng, trong 6 tháng.

“Tuy nhiên, để được hưởng, doanh nghiệp phải chứng minh đang gặp khó khăn tài chính và có nguy cơ sa thải lao động số lượng lớn”, ông Hùng nói. Theo ông, điều kiện này khiến chính sách gần như không phát huy hiệu quả. “Nếu doanh nghiệp thực sự rơi vào tình cảnh như vậy, họ thường chọn phương án cắt giảm lao động luôn, chứ không còn thời gian để lên kế hoạch xin hỗ trợ”, ông lý giải.

Ông cho rằng cách tiếp cận này mang tính bị động, trái ngược với mục tiêu chủ động phòng ngừa thất nghiệp của Quỹ. Do đó, cần sửa đổi quy định theo hướng linh hoạt, đơn giản thủ tục để khuyến khích doanh nghiệp giữ chân và nâng cao năng lực cho lao động từ sớm.

Trong báo cáo gửi Cục Việc làm (Bộ Nội vụ), chuyên gia Clemente Pignatti khuyến nghị Luật Việc làm cần sửa đổi theo hướng tăng phạm vi bao phủ và đa dạng các chương trình đào tạo nghề, phù hợp xu hướng chuyển dịch của thị trường lao động.

Ông đề xuất điều chỉnh các quy định tài chính đang quá cứng nhắc, như mức trần hỗ trợ hay thời gian học nghề, để tạo điều kiện linh hoạt hơn cho người học. Đồng thời, khi chất lượng và hiệu quả đào tạo được cải thiện, chính sách cũng cần tăng trách nhiệm của người hưởng thụ.

Theo đó, người lao động có kỹ năng thấp hoặc thất nghiệp dài hạn nên bắt buộc tham gia các khóa học nghề. Nếu không đăng ký hoặc thường xuyên vắng mặt, đây có thể là căn cứ để tạm ngưng trợ cấp thất nghiệp.

Lê Tuyết