Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong diễn ca Lịch sử nước ta năm 1942, mục Những năm quan trọng, đã viết “1945- Việt Nam độc lập”.
Nhiều người bấy giờ không tin dự đoán. Nhưng hơn ba năm sau, vào ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời sau 15 ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.
Để đi tới ngày độc lập, Việt Nam đã trải qua bảy thập kỷ đấu tranh giữ nước, kể từ khi Pháp xâm lược, tàu chiến nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng ngày 1/9/1858. Khởi nghĩa, nổi dậy với nhiều khuynh hướng đều mang tinh thần chung yêu nước song không đi đến thắng lợi cuối cùng.
“Tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước bị dìm trong máu…”, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này tổng kết, ví mấy mươi năm ấy “đen tối như không có đường ra”.

Những cuộc tập dượt vũ trang – chính trị đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại Hương Cảng, từ ngày 6/1 đến 7/2/1930. Trong những văn kiện đầu tiên, Đảng khẳng định cách mạng bạo lực là con đường duy nhất, cần tổ chức ra quân đội công nông để giành và giữ chính quyền. Các tổ chức vũ trang từ đây lần lượt hình thành.
Ngày 1/5/1930, kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, Xứ ủy Trung Kỳ tổ chức cuộc biểu tình của công nông Nghệ Tĩnh, giương cao cờ đỏ búa liềm, hát Quốc tế ca, hô vang khẩu hiệu giảm thuế, giảm giờ làm, tăng lương… Biểu tình kết thúc trong tiếng súng đàn áp, báo hiệu “cuộc đấu tranh ở An Nam đã đến ngày quyết liệt”.
Như hiệu ứng domino, trong tháng 5, công nhân các nhà máy ở Vinh, Bến Thủy lần lượt đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Nông dân biểu tình hoãn thuế. Nghệ Tĩnh suốt tháng 9-10/1930 rung chuyển bởi những cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng do Xứ ủy Trung Kỳ lãnh đạo. Khi bộ máy Pháp và phong kiến địa phương tê liệt, các Xô Xiết – tức ủy ban hành chính do dân bầu hình thành ở nhiều làng xã, trực tiếp quản lý đời sống mọi mặt.
Việc giành chính quyền không có chuẩn bị khiến Xô Viết Nghệ Tĩnh tồn tại vài tháng rồi bị dập tắt. Song cao trào được ví như cuộc “diễn tập vũ trang” đầu tiên từ khi Đảng Cộng sản ra đời, để lại nhiều bài học về liên minh công nông, tập hợp quần chúng đấu tranh vũ trang, giành và giữ chính quyền.
“Cùng nhau đi hồng binh” – bài hát của chiến sĩ Đinh Nhu ra đời trong nhà tù Hỏa Lò năm 20 tuổi, vang lên trong những ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh và 15 năm sau lại được hát vang trong các đoàn quân tham gia tổng khởi nghĩa.

Trục phát xít Berlin – Roma – Tokyo hình thành thập niên 1930 đẩy thế giới tới nguy cơ chiến tranh thứ hai. Sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 tại Liên Xô, Hội nghị tháng 7/1936 của Đảng xác định trước mắt tập trung đòi quyền tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình; nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và phong kiến. Hình thức đấu tranh chuyển từ công khai sang nửa công khai nửa bí mật, hợp pháp lẫn bất hợp pháp.
Đời sống Đông Dương những năm này hỗn loạn sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Khi đoàn điều tra tình hình thuộc địa của Quốc hội Pháp sắp sang, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động người dân nêu nguyện vọng cải thiện đời sống. Phong trào Đông Dương Đại hội thu hút các giai tầng xã hội cùng đòi quyền dân sinh, dân chủ. Giới cầm quyền đã chịu nhượng bộ một số quyền lợi, cải thiện điều kiện lao động, sinh hoạt…
Nếu Xô Viết Nghệ Tĩnh được coi là cuộc diễn tập vũ trang đầu tiên, phong trào đòi quyền tự do dân chủ cơm áo hòa bình những năm 1936-1939 được ví như cuộc tập dượt chính trị thứ hai chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa 1945.
Nhiệm vụ hàng đầu – giải phóng dân tộc
Sau năm 1939, cuộc đấu tranh dân chủ không còn phù hợp, sách báo công khai của Đảng bị cấm, cán bộ bị bắt. Mật thám đứng theo dõi trước nhà những cán bộ đã lộ mặt trong thời kỳ hoạt động nửa công khai. Các tổ chức đều rút vào bí mật. Các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng… theo lệnh tổ chức “tìm đường vượt biên sang Trung Hoa”.
Hơn 60 ngày sau Thế chiến II bùng nổ, Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939 của Đảng đã xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh mới. Sự chuyển hướng chiến lược định hình dần qua các Hội nghị Trung ương 6-7 và hoàn thiện tại Hội nghị 8 tháng 5/1941, sau khi quân Nhật nhảy vào Đông Dương. Bởi dân tộc không được giải phóng, không độc lập thì quyền lợi giai cấp đến vạn năm không thể đòi lại.
Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ cuối năm 1942, sự chuyển hóa thế và lực giữa phe Đồng minh và trục phát xít dẫn đến khả năng quân đội Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Đảng xác định “Đừng ảo tưởng quân Tàu (quân Tưởng Giới Thạch), quân Anh và Mỹ sẽ mang lại tự do cho ta. Cố nhiên là phải kiếm bạn đồng minh, dẫu rằng tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, nhưng công việc của ta trước hết ta phải làm lấy”.

Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, tức Mặt trận Việt Minh ngày 19/5/1941. Mặt trận lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm biểu tượng, liên hiệp nhân dân “cùng nhau đánh Pháp đuổi Nhật, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Thực tế Nguyễn Ái Quốc từ năm 1940 bôn ba Quế Lâm, Trung Quốc đã nghĩ đến lập mặt trận đoàn kết toàn dân. “Việt Nam giải phóng đồng minh? Việt Nam phản đế đồng minh hay là Việt Nam độc lập đồng minh?”, tên nào cho nhân dân dễ nhớ. Những ý kiến Bác nói ngày đó cuối cùng đã được thảo luận và hiện thực hóa khi Mặt trận Việt Minh ra đời.
Giữa năm 1942, khu căn cứ địa Cao Bằng nối Bắc Sơn – Võ Nhai, thông suốt liên lạc giữa Trung ương ở căn cứ với Ban Thường vụ Trung ương dưới xuôi. Cao Bằng – Thái Nguyên – Lạng Sơn – Tuyên Quang tạo thành tuyến hành lang chính trị. Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh cùng các cộng sự cốt cán từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) cùng Trung ương Đảng lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Đội quân chủ lực đầu tiên ra đời
Mùa hè 1944, kế hoạch phát động chiến tranh du kích vùng Cao – Bắc – Lạng đã được khởi thảo và sẵn sàng. Chủ trương sau đó hoãn lại, khi Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về vùng biên giáp Cao Bằng tháng 9/1944 và đánh giá lại tình hình. Trung ương nhận định chủ trương mới nhìn trên diện hẹp ba tỉnh Cao – Bắc – Lạng trong khi nhiều địa phương khác chưa sẵn sàng.
Bác nhận định thời kỳ cách mạng hòa bình đã qua nhưng giai đoạn khởi nghĩa vũ trang chưa đến. Chỉ hoạt động chính trị thì không đủ sức đẩy phong trào lên, phát động khởi nghĩa sẽ lập tức chịu đàn áp. Cuộc đấu tranh đã đến lúc từ chính trị đi lên quân sự, song chính trị phải trọng hơn quân sự.
Dưới tán rừng Trần Hưng Đạo ngày 22/12/1944, ông Võ Nguyên Giáp nhận nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – đội quân chủ lực đầu tiên làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa.
Đội quân gánh trọng trách “tiên phong trên con đường giải phóng dân tộc” với tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến… Vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này…”.
Ba ngày sau thành lập, Đội quân 34 thành viên đã diệt đồn Phay Khắt và Nà Ngần ở Cao Bằng, gây thanh thế, mở đầu truyền thống “đánh thắng trận đầu” của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kháng Nhật cứu nước
Thế chiến II bước vào đoạn kết khi ngày 30/4/1945, Hồng quân Liên Xô cắm cờ trên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitle tự sát. Ngày 8/5/1945, Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và quân Đồng minh không điều kiện. Thế chiến II kết thúc ở châu Âu.
Tại Hội nghị Yalta ở Liên Xô, Đông Dương nổi lên thành vấn đề quan trọng với các nước lớn khi tiêu diệt phát xít Nhật cũng như toan tính xác lập trật tự thế giới mới. Mỹ muốn lập chế độ ủy trị quốc tế trong khi Anh muốn trả Đông Dương cho Pháp. Liên Xô lại cho rằng nên thay chế độ thực dân cũ bằng chế độ tự do hơn.
Nhưng ở Đông Dương, quân Nhật trước giờ cáo chung đã “hất cẳng” Pháp bằng cuộc đảo chính đêm 9/3/1945. Tiếng súng Nhật đảo chính Pháp nổ ra cùng lúc Hội nghị Ban thường vụ Trung ương họp mở rộng diễn ra tại Bắc Ninh, cách Hà Nội gần 30 km.
“Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” – bản Chỉ thị được Trung ương Đảng soạn thảo, ban bố rộng rãi chỉ ba ngày sau đảo chính. Khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” thay thế “đánh đuổi Nhật, Pháp” trong cao trào kháng Nhật cứu nước đã tạo đà cho tổng khởi nghĩa.
Hội nghị quân sự Bắc Kỳ tháng 4/1945, sau khi đánh giá cục diện chiến trường châu Âu, xác định đã đến lúc phát động chiến tranh du kích tiến tới tổng khởi nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc gồm các giới, đảng phái, thân sĩ sẽ được triệu tập để thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và lập ra Chính phủ lâm thời.
Làn sóng khởi nghĩa từng phần trong cao trào kháng Nhật lan rộng từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung. “Với lòng căm phẫn tột độ, nhân dân đã dứng dậy cả rồi. Cách mạng không thể nào đi từng bước một. Tình hình cấp bách đòi một sự thay đổi tận gốc rễ”, ông Võ Nguyên Giáp nhận định.
Khu giải phóng trên phạm vi sáu tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái với “thủ đô” Tân Trào được thành lập tháng 6/1945. Việc thực hiện 10 chính sách của Việt Minh, trong đó “phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ” cho hơn một triệu đồng bào đã mang dáng dấp “nước Việt Nam mới ra đời…, thực tế một phần Bắc Bộ đã đặt dưới chính quyền cách mạng”.

‘Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!’
Khi cao trào kháng Nhật cuồn cuộn từ Bắc tới Nam, ở Tân Trào từ tháng 7, Hồ Chí Minh giục chuẩn bị hai hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân đại hội, chủ trương vẫn họp nếu thiếu vài người chưa về kịp, “không thì không kịp được với tình hình chung”.
Giữa lúc bộn bề, Bác bị sốt mấy ngày nhưng vẫn gượng làm việc đến mức mê sảng. Một đêm chợt tỉnh sau cơn sốt, Bác nói với ông Võ Nguyên Giáp “Thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Đại biểu chưa kịp tề tựu đủ, Trung ương và Tổng bộ Việt Minh quyết định không thể chờ thêm nữa. Bởi thời cơ giành chính quyền chỉ đến trong khoảng 15 ngày – từ khi Liên Xô chính thức tham chiến chống Nhật đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
13/8/1945, Trung ương nhận tin quân đội Nhật đã ngừng chiến đấu, Nhật đầu hàng Đồng minh. Vận mệnh dân tộc đứng trước thời cơ lớn. Mệnh lệnh khởi nghĩa cho toàn dân và bộ đội được ban hành ngay 23h cùng ngày.
Hội nghị toàn quốc của Đảng lập tức triệu tập sáng 14/8 quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Quốc dân Đại hội họp ngày 16-17/8 tại Tân Trào đã thông qua quyết định tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh.
“Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà”, Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa do ông Trần Huy Liệu khởi thảo nêu.
Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam được thành lập – sau này là Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Lần đầu từ khi về, Bác ra mắt đại biểu quốc dân ba miền.
Hơn 20 triệu người Việt Nam với tinh thần “sức ta giải phóng ta” đã đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền, từ ngày 14 đến 28/8/1945, thiết lập nền dân chủ cộng hòa, chấm dứt gần trăm năm thực dân và hàng nghìn năm phong kiến. 15 năm chuẩn bị để giành chính quyền trong 15 ngày khi thời cơ vàng đã đến.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Khi ấy, trên chiến hạm Missouri đang bỏ neo trong vịnh Tokyo, Nhật Bản chính thức ký các văn kiện chấp nhận đầu hàng quân Đồng minh.
Trước đó trong Hội nghị Potxdam cuối tháng 7/1945, phe Đồng minh quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực để tiến vào tước vũ khí quân Nhật khi phát xít đầu hàng. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam do quân Anh phụ trách, từ 16 trở ra Bắc do quân Tưởng Giới Thạch chịu trách nhiệm. Pháp đã bị gạt ra ngoài do sức ép từ Mỹ muốn thế chân ở Đông Dương. Việc hệ trọng này nhân dân Việt Nam đã không được hỏi ý kiến.
Nhưng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khai sinh, người Việt Nam đã có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, với tư thế “chủ nhân ông” ngẩng cao đầu tiếp quân đội Đồng minh vào giải giáp quân Nhật.
“Mau lẹ. Kịp thời. Nổ ra đúng lúc phải nổ” trở thành đặc trưng của Cách mạng tháng Tám. Năm 1945 – như học giả nước ngoài từng đánh giá, cùng với năm 1975 là những bước ngoặt lớn đánh dấu sự khởi đầu và kết thúc của quá trình dài chiến tranh và biến đổi xã hội.

Hồng Chiêu
Bài viết tham khảo các tư liệu:
– Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tập Hồi ký, NXB Quân đội nhân dân 2018
– Cách mạng tháng Tám 1945 Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của dân tộc VIệt Nam trong thế kỷ XX, NXB Tổng hợp TP HCM
– Tư liệu đại tá Trần Ngọc Long, nguyên Viện phó Lịch sử quân sự Việt Nam
– Sách ảnh QĐNDVN: 80 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành (1944-2024); Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam