
Luật sư Bùi Đình Ứng bào chữa tại tòa – Ảnh: GIANG LONG
Câu chuyện có thể bắt đầu bằng những rủi ro pháp lý mà cơ quan công quyền đối diện khi vận hành bộ máy và nền hành chính.
Nhu cầu thực tiễn
Theo báo cáo tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 15, án hành chính được thụ lý trong năm 2024 là 13.009 vụ, tăng gần 850 vụ so với năm 2023. Đáng chú ý, ở giai đoạn giải quyết khiếu nại trước đó, số lượng vụ việc khiếu nại phải tiếp nhận và giải quyết lên đến 480.233 vụ, tăng 6% so với năm trước.
Trong tất cả các tình huống như vậy, chính các cơ quan phải tự gồng mình tham gia các thủ tục pháp lý và theo đuổi vụ kiện.
Cụ thể hơn, sẽ có nhân sự được chỉ định, may mắn hơn là tổ công tác được thành lập, để phụ trách vụ việc.
Tuy nhiên không phải cơ quan nào, công chức nào cũng nắm vững và có trách nhiệm nắm vững nghiệp vụ, thủ tục pháp lý để theo đuổi vụ kiện. Đó là chưa kể công tác chuyên môn dễ bị ảnh hưởng.
Thực tế trong nhiều vụ án hành chính trước đây, thay vì trực tiếp tham gia, thủ trưởng các cơ quan nhà nước là bị đơn của vụ kiện cử chuyên viên làm thay.
Sau khi quy định của Luật Tố tụng hành chính siết chặt, chỉ cho phép thủ trưởng ủy quyền cho cấp phó trong một số trường hợp, song tình trạng đó vẫn không mấy cải thiện. Thực tế có vụ việc UBND cấp tỉnh bị kiện, chủ tịch UBND yêu cầu… sở và giám đốc sở có liên quan chịu trách nhiệm tham gia.
Tuy nhiên khi Hội đồng xét xử không chấp nhận văn bản ủy quyền này thì có thể mở phiên tòa… vắng mặt bị đơn. Có thực tế là trong một số vụ, thủ trưởng các cơ quan bị kiện từ bỏ tham gia đối thoại trong tố tụng hành chính.
Đương nhiên điều này có thể không phạm luật, nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình giải quyết, thậm chí là kết quả của vụ án.
Ngoài vụ án hành chính, vướng víu pháp lý trong tranh chấp về đầu tư cũng có diễn tiến tương tự. Với nhóm này, mô hình phổ biến để tham gia vụ kiện là… tổ công tác được phân công tham gia tố tụng và cả một đội ngũ hỗ trợ trong nước.
Nhưng dù sao khi nhìn lại tổ công tác không phải những người hành nghề luật chuyên nghiệp. Và quan trọng hơn hết, về mặt lý thuyết, việc theo đuổi vụ việc sẽ ảnh hưởng đến các nhiệm vụ chuyên môn của họ và cả đội ngũ nhân sự giúp việc phía sau.
Những thực tế nói trên là một phần lý do phát sinh nhu cầu xây dựng đội ngũ luật sư công ở nước ta.
Luật sư công hay luật sư ngoài nhà nước?
Rõ ràng, nhu cầu của các cơ quan về luật sư công là có, nếu không muốn nói là rất lớn. Thậm chí, có lãnh đạo địa phương thẳng thắn thừa nhận án hành chính rất nhiều, quá tải, có căng mình cũng không dự xuể. Đó là chỉ mới tham dự phiên tòa, chứ chưa nói gì đến chuẩn bị hồ sơ pháp lý.
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy cơ quan công quyền cũng đối diện rủi ro pháp lý khi vận hành bộ máy và nền hành chính.
Trong các quan hệ tố tụng mang tính ngang hàng, đương sự là nhà nước cũng không có “thẩm quyền,” không còn là “quan” và bình đẳng với đương sự khác. Hồ sơ pháp lý, nắm bắt quy định và nghĩa vụ tố tụng, vì vậy là yếu tố quan trọng mà không phải công chức nào cũng hiểu rõ và thuần thục.
Cho nên ngoài yêu cầu xây dựng chế định luật sư công, Nghị quyết 66-TW/NQ còn xác định giải pháp thu hút, tiếp nhận luật sư giỏi vào khu vực công.
Trong thời gian tới khi các quy định, thủ tục nhiều hơn có thể sẽ áp lực nhiều hơn.
Trong một số trường hợp, luật sư công có thể đại diện cho cơ quan công quyền là bên đứng ra khởi kiện.
Thực tế cũng có một số vụ việc, cơ quan nhà nước thuê luật sư bảo vệ quyền lợi của mình. Song không phải cơ quan nào cũng sử dụng cơ chế này. Mặt khác, đây có thể được xem là cơ chế phi chính thức. Đó là chưa kể hiện nay việc huy động kinh phí để trả thù lao cho luật sư trong các trường hợp như vậy là không dễ.
Cho nên, ý kiến cho rằng không cần thiết lập đội ngũ luật sư công và khoảng 20.000 luật sư hiện nay có thể hỗ trợ nhà nước có thể là phương án thiếu thuyết phục.
Một trong những đòi hỏi đặt ra là luật sư công phải là đội ngũ luật sư chuyên nghiệp, có kiến thức và nghiệp vụ, đặc biệt là có khả năng và được công nhận tham gia tố tụng. Đó là lý do vì sao không phải công chức nào, kể cả người ở bộ phận pháp chế cũng khó đảm nhiệm.
Luật sư công sẽ được đầu tư và định hướng vào các “lĩnh vực công”.
Luật sư công hành nghề với tính chất, chức năng và mục đích khác. Luật sư là công chức, viên chức (hay ký hợp đồng lao động với cơ quan chủ quản) là đội ngũ luật sư nắm vững đặc trưng của nền công vụ và phục vụ lợi ích công.
Công tác hỗ trợ pháp lý ngoài tố tụng cũng là nội dung hoạt động quan trọng của luật sư công. Có nghĩa, ngoài việc giúp đội ngũ công chức có thời gian tập trung hoàn thành công vụ do không tham gia tố tụng, luật sư công có thể tư vấn các vấn đề pháp lý cần thiết theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước.
Đặc biệt là đối với các dự án kinh tế – xã hội lớn, khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài hoặc tham gia tư vấn cho cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.
Tham vấn sớm luật sư công và có hướng xử lý các tình huống phù hợp ngay ở giai đoạn đầu có thể giúp kéo giảm số lượng vụ việc khiếu nại. Cũng có thể nhờ sự tham vấn, các cơ quan quản lý có thể kết thúc sớm việc giải quyết khiếu nại hay kết thúc giải quyết và giải quyết dứt điểm ngay từ cấp cơ sở như kỳ vọng lâu nay của cơ quan công quyền.
Hiệu quả hơn, kết quả giải quyết đó phần nào tránh đưa vụ việc đến giai đoạn căng thẳng tiếp theo là khiếu kiện hành chính.
Đó có thể là một phần lý do vì sao tại nhiều quốc gia có chế định luật sư công, Bộ Tư pháp được lựa chọn là cơ quan chủ quản.
Ở nước ta, Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) có thể là một lựa chọn phù hợp để quản lý và sử dụng đội ngũ luật sư công khi được thành lập.