Chuyên gia: ‘Khó nhân rộng nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam’

Dù giúp giảm phát thải, nâng cao giá trị nông sản, nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam vẫn khó nhân rộng vì thiếu liên kết, nguồn lực và chính sách đồng bộ, theo các chuyên gia.

Tại hội thảo thúc đẩy nông nghiệp sinh thái do Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (WWF), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) và UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức chiều 6/10, các chuyên gia cho rằng phát triển nông nghiệp sinh thái là con đường tất yếu để thích ứng biến đổi khí hậu, song cần có chiến lược dài hạn và nguồn lực vững chắc để lan tỏa.

Ông Bùi Hoài Nam, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, cho biết giai đoạn 2010–2025, cả nước có 275 mô hình nông nghiệp sinh thái, trong đó 60% thực hiện trong 5 năm gần đây, khi Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Hơn 60% dự án sử dụng vốn ODA, còn nội lực trong nước và khu vực tư nhân vẫn khiêm tốn.





Mô hình bảo tồn cá tại phường Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Ngọc Tài

Mô hình bảo tồn cá tại phường Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Ngọc Tài

Theo ông Nam, các mô hình hiện phát triển rời rạc, quy mô nhỏ, hiệu quả thấp. Nhiều nơi xây dựng được hạ tầng chính sách nhưng nền tảng kỹ thuật tại nông trại lại yếu, đất đai thoái hóa, nguồn nước suy giảm, logistics hạn chế, tổn thất sau thu hoạch cao.

“Chuyển đổi nông nghiệp sinh thái đang rời rạc, thiếu đồng bộ, đứt gãy từ trung ương đến địa phương, còn năng lực và nguồn lực mỏng khiến các mô hình rơi vào bẫy thí điểm, khó nhân rộng”, ông Nam nói.

Ông Christopher Howe, Quản lý Chương trình sáng kiến vùng đồng bằng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, WWF-Quốc tế, nhận định nông nghiệp sinh thái nên được xem là “nông nghiệp phục hồi”, bởi nó giúp tái thiết cảnh quan bị tàn phá và biến nông nghiệp thành nơi “trú ẩn xã hội và sinh thái” cho con người và đa dạng sinh học.

PGS.TS Đào Thế Anh, Phó giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cho rằng đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là lộ trình khôi phục vị thế nghề nông, kết nối lại với thiên nhiên, tăng khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu cho các thế hệ tương lai.

Về thị trường, ông Vinod Ahuja, Trưởng đại diện FAO tại Việt Nam, cho biết nhu cầu đối với nông sản sinh thái toàn cầu rất lớn, ước đạt 30 tỷ USD mỗi năm, song người tiêu dùng ngày càng khắt khe về an toàn thực phẩm và tác động sinh thái. “Đây là cơ hội nhưng cần đầu tư thiết thực vào toàn chuỗi – từ sản xuất, truy xuất nguồn gốc, quảng bá sản phẩm đến tiếp cận người tiêu dùng”, ông nói.





Đại diện các tổ chức quốc tế, các chuyên gia của bộ, địa phương, hợp tác xã tại buổi tọa đàm cuối hội thảo. Ảnh: Ngọc Tài

Đại diện các tổ chức quốc tế, các chuyên gia của bộ, địa phương, hợp tác xã tại buổi tọa đàm cuối hội thảo. Ảnh: Ngọc Tài

Đồng tình với quan điểm của ông Nam, ông Huỳnh Quốc Tịnh, Giám đốc Chương trình Nông nghiệp và Lương thực thực phẩm bền vững WWF-Việt Nam, đặt vấn đề: “Tại sao các mô hình thí điểm đều được đánh giá thành công, có lợi nhuận, giảm chi phí nhưng lại không thể nhân rộng?”. Ông cho rằng “cần nhìn vào góc độ thực tiễn, xác định rõ mô hình kinh doanh, chi phí duy trì, ai hưởng lợi” để tạo động lực phát triển bền vững.

Tại hội thảo, các chuyên gia đề xuất nhiều giải pháp thúc đẩy nhân rộng mô hình nông nghiệp sinh thái, trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện khung pháp lý, ban hành chính sách khuyến khích chuyển đổi như ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính, đào tạo kỹ thuật, mở rộng mạng lưới khuyến nông, cùng với giải pháp xây dựng thương hiệu và tháo gỡ rào cản thị trường.

Các ý kiến thống nhất rằng nông nghiệp sinh thái mang lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường, song để lan tỏa cần sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, cùng một chiến lược dài hạn thay vì những mô hình thử nghiệm ngắn hạn.

Ngọc Tài