Chính phủ duyệt Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII

Quy hoạch điện VIII điều chỉnh vừa được duyệt đặt mục tiêu sản lượng điện tăng gấp đôi vào 2030, tỷ lệ điện tái tạo chiếm 28-36%.

Quyết định phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) được Phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn ký ngày 15/4.

Quy hoạch điều chỉnh đặt mục tiêu bảo đảm cung ứng đủ điện cho yêu cầu tăng trưởng GDP bình quân 10% mỗi năm giai đoạn 2026-2030, và khoảng 7,5% thời kỳ 2031-2050. Do đó, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu vào 2030 dự kiến đạt 560,4- 24,6 tỷ kWh và lên đến 1.360,1-1.511,1 tỷ kWh vào 2050.

Như vậy, mục tiêu là đến 2030 tăng 80-100% so với sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đạt được năm 2024, ở mức 308,73 tỷ kWh.

Trọng tâm lớn của Quy hoạch điều chỉnh là thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, với mục tiêu chiếm tỷ lệ 28-36% vào năm 2030, và 74-75% năm 2050 (không bao gồm thủy điện).

Điện mặt trời dự kiến đạt tổng công suất 46.459-73.416 MW cuối thập niên này. Chính phủ cũng đặt mục tiêu đến năm 2030, 50% các tòa nhà công sở và 50% hộ dân sử dụng điện mặt trời mái nhà theo hình thức tự sản, tự tiêu.

Trong khi đó, tổng công suất điện gió trên bờ và gần bờ dự kiến đạt 26.066-38.029 MW vào năm 2030. Việt Nam hướng đến xuất khẩu điện tái tạo sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực. Đến 2035, công suất xuất khẩu điện dự kiến đạt 5.000-10.000 MW, tùy theo nhu cầu và hiệu quả kinh tế.

Với thủy điện, đến năm 2030, tổng công suất (bao gồm thủy điện nhỏ) đạt 33.294 – 34.667 MW, hướng tới 40.624 MW năm 2050. Nguồn năng lượng này sẽ tiếp tục được khai thác tối đa trên cơ sở bảo vệ môi trường, rừng và nguồn nước.

Cùng với đó, điện sinh khối, điện rác và các nguồn năng lượng mới khác như địa nhiệt cũng được khuyến khích phát triển để xử lý môi trường và tận dụng phụ phẩm nông nghiệp. Năm 2030, tổng công suất nhóm nguồn này vào khoảng 3.009-4.881 MW và tăng lên hơn 9.000 MW đến năm 2050.

Đặc biệt, giai đoạn 2030-2035, sẽ đưa vào vận hành hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 với quy mô 4.000 – 6.400 MW. Đến năm 2050, hệ thống có thể cần bổ sung 8.000 MW điện hạt nhân để đảm bảo ổn định.

Quy hoạch không bổ sung dự án nhiệt điện than mới, chỉ tiếp tục các dự án đang triển khai và chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối hoặc amoniac với các nhà máy đã vận hành trên 20 năm. Nhà máy quá 40 năm sẽ ngừng hoạt động nếu không thể chuyển đổi.

Với điện khí, Quy hoạch cho biết ưu tiên sử dụng khí trong nước và bổ sung LNG nhập khẩu nếu cần. Về lâu dài, từng bước chuyển đổi sang hydrogen khi công nghệ chín muồi. Hệ thống lưu trữ điện cũng sẽ được đầu tư mạnh, mục tiêu đạt công suất pin 10.000 – 16.300 MW vào năm 2030 và gần 96.120 MW vào năm 2050.

Quy hoạch điện VIII ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải khoảng 136,3 tỷ USD giai đoạn 2026 – 2030 và cần thêm 130 tỷ USD những năm 2031 – 2035. Từ 2036 đến 2050, Việt Nam tiếp tục cần đầu tư thêm 569,1 tỷ USD cho hoạt động này.

*Cơ cấu nguồn điện đến 2030

Nguồn Công suất (MW) Tỷ lệ (%)
Điện gió trên bờ & gần bờ 26.066 – 38.029 14,2 – 16,1
Điện gió ngoài khơi 6.000 – 17.032 Không đề cập
Điện mặt trời 46.459 – 73.416 25,3 – 31,1
Sinh khối 1.523 – 2.699 Không đề cập
Điện rác 1.441 – 2.137 Không đề cập
Địa nhiệt & năng lượng mới khác ≈ 45 Không đề cập
Thủy điện 33.294 – 34.667 14,7 – 18,2
Điện hạt nhân 4.000 – 6.400 Không đề cập
Nguồn lưu trữ 10.000 – 16.300 5,5 – 6,9
Nhiệt điện than 31.055 13,1 – 16,9
Nhiệt điện khí trong nước 10.861 – 14.930 5,9 – 6,3
Nhiệt điện khí hóa lỏng (LNG) 22.524 9,5 – 12,3
Điện linh hoạt 2.000 – 3.000 1,1 – 1,3
Thủy điện tích năng 2.400 – 6.000 Không đề cập
Nhập khẩu 9.360 – 12.100 4,0 – 5,1

Viễn Thông