
EVN vừa công bố biểu giá điện hai thành phần, áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất tham gia thí điểm tính toán trên giấy từ tháng này.
Bộ Công Thương đồng ý thí điểm giá bán lẻ điện hai thành phần trên giấy từ tháng 10. Nhóm thí điểm là doanh nghiệp sản xuất, có sản lượng tiêu thụ bình quân 200.000 kWh một tháng trở lên, ước tính khoảng 7.000 đơn vị.
Giá hai thành phần gồm giá công suất và điện năng. Trong đó, phần công suất là cố định hàng tháng, còn điện năng biến đổi theo mức dùng thực tế.
Biểu giá hai thành phần thí điểm sẽ chia theo các cấp điện áp (cao – trung – hạ áp) và khung giờ sử dụng. Cụ thể như sau:
Cấp điện áp | Giá công suất (đồng/kW/tháng) | Giá điện năng (đồng/kWh) | ||
Bình thường (*) | Cao điểm | Thấp điểm | ||
110 kV trở lên | 209.459 | 1.253 | 2.162 | 843 |
22-110 kV | 235.414 | 1.275 | 2.182 | 859 |
6-22 kV | 240.050 | 1.280 | 2.189 | 871 |
dưới 6 kV | 286.153 | 1.332 | 2.251 | 904 |
(*) Bình thường là khung giờ 4h-9h30; 11h30-17h và 20-22h hàng ngày, trừ Chủ nhật (4h-22h). Cao điểm hàng ngày (trừ Chủ nhật) là khung 9h30-11h30 và 17-20h. Còn thấp điểm thường từ 22h hôm trước đến 4h sáng hôm sau, có giá rẻ nhất do nhu cầu sử dụng xuống thấp.
Mức giá điện năng trong biểu hai thành phần thấp hơn khoảng 25-33% so với hiện hành, do một phần chi phí cố định được tách ra thành công suất.
Như vậy, tổng tiền khách hàng phải trả sẽ phụ thuộc nhiều vào mức công suất lớn nhất (Pmax) mà họ sử dụng. Doanh nghiệp nào quản lý tốt nhu cầu sử dụng, không dùng nhiều thiết bị cùng lúc, có thể trả ít hơn so với hiện hành. Ngược lại, nếu họ dùng thiết bị, máy móc vào một thời điểm khiến công suất tăng cao, tiền điện có thể tăng do phần trả cho công suất chiếm tỷ trọng lớn hơn trong hóa đơn.
EVN cho biết đây là bước thử nghiệm và chưa áp dụng vào hóa đơn thực tế. Từ tháng 10, hóa đơn của các doanh nghiệp trong diện thí điểm sẽ có thêm thông báo, so sánh tiền điện theo giá hai thành phần.
Việt Nam đang áp dụng giá một thành phần, tức tiền trả theo sản lượng dùng (tính theo kWh). Cách này được đánh giá chưa phản ánh chính xác chi phí ngành điện bỏ ra (khấu hao tài sản, đường dây, trạm biến áp…) cho mỗi khách hàng. Với giá hai thành phần, khách hàng sẽ trả riêng cho mỗi kW công suất họ đăng ký hàng tháng với nhà cung cấp, ngay cả khi không sử dụng.
Thực tế, việc cải cách giá bán lẻ điện cần được cơ quan quản lý đẩy nhanh trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng cơ chế thị trường điện cạnh tranh. Tuy nhiên, cơ chế tính giá cần lộ trình phù hợp, song song với truyền thông để tạo đồng thuận.
Theo ông Nguyễn Quốc Dũng, Trưởng ban Kinh doanh của EVN, nhiều nước đã áp giá hai thành phần do đây là cách phản ánh đúng thực tế nhu cầu sử dụng. Ông cho rằng hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam hiện có thể đáp ứng, công tơ điện tử có thể thu thập số liệu đo đếm từ xa và xác định công suất trong 30 phút một lần. Hạ tầng truyền dẫn cũng tương đối tốt, là điều kiện cơ bản để triển khai giá hai thành phần.
Đại diện EVN cho biết giá hai thành phần được kỳ vọng phản ánh chính xác hơn chi phí đầu tư của hệ thống để cung cấp đủ công suất cho người dùng. “Trước đây, khách hàng muốn tiết kiệm cần giảm sản lượng điện sử dụng, nhưng giờ họ có thể trả ít tiền hơn bằng việc tối ưu cách dùng”, ông nói.
Phương Dung