Cuộc chiến cân não ở ‘rốn lũ’ miền Trung


18h ngày 26/10, toàn TP Huế vang dội tiếng báo động từ hệ thống 4 còi hú cảnh báo thiên tai. Hai hồi còi kéo dài 20 giây, lặp lại hai lần là tín hiệu cảnh báo lũ vượt báo động hai, nguy cơ lên tới báo động ba. Khi đó, Huế bước sang ngày mưa thứ 6 liên tiếp với lưu lượng phổ biến 200-400 mm, chưa có dấu hiệu dừng, trong khi các hồ chứa thượng nguồn đều sắp đến ngưỡng.

Đêm đó, Chủ tịch TP Huế Phan Thiên Định cùng các cán bộ tại Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự gần như thức trắng, túc trực tại trụ sở Chi cục Thủy lợi và Biến đổi khí hậu để theo dõi diễn biến lũ. 6h sáng 27/10, mực nước sông Hương vượt báo động ba, một tiếng sau, sông Bồ cũng tương tự. Camera giám sát cho thấy ba hồ thủy điện ở thượng nguồn đều xả trắng xóa. Trong khi trên bản đồ dự báo khí tượng, dải mây dày từ Biển Đông tiếp tục kéo về phía Huế – Đà Nẵng.

“Trong ba hồ lớn nhất điều tiết lũ cho Huế, chỉ còn Tả Trạch cầm cự được, có thể điều tiết lũ về hạ du với lượng nhỏ. Còn hồ Hương Điền và
Bình Điền mất khả năng điều tiết, nước chảy về đến đâu đập phải xả đến đó”, ông Đặng Văn Hòa, Chi cục trưởng Thủy lợi và Biến đổi
khí hậu TP Huế, báo cáo tình hình với Chủ tịch Phan Thiên Định trưa 27/10.

Ông Định phải tính đến kịch bản xấu nhất.

TP Huế trong những ngày lũ lịch sử, tháng 10/2025. Ảnh: Võ Thạnh

“Mực nước hồ đã chạm ngưỡng nước dâng bình thường. Nếu không điều tiết chuẩn, hàng chục nghìn hộ dân hạ du Huế, đặc biệt là khu đô thị trung tâm,
sẽ bị nhấn chìm”, ông Hòa kể lại.

Ngày 27/10, trạm Bạch Mã ghi nhận lượng mưa trong 24 giờ lên tới 1.740 mm – lớn nhất lịch sử Việt Nam và đứng thứ hai thế giới. Đây
cũng là đỉnh điểm căng thẳng nhất trong hai tuần “lũ chồng lũ” tại Huế và Đà Nẵng – hai tâm mưa miền Trung cuối tháng 10.

Theo kịch bản của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên, với mực nước lũ ở báo động ba, hơn nửa triệu dân sống trên 1,2 triệu km2 vùng hạ du lưu vực sông Hương có thể bị ảnh hưởng, với tỷ lệ ngập 17%.

Mọi số liệu đều chỉ báo tình hình xấu, gợi nhớ về trận lũ lịch sử năm 1999 đã cướp đi 595 sinh mạng tại 10 tỉnh miền Trung, trong đó Huế thiệt
hại nặng nhất với 352 người.

“Giằng co” cắt lũ

Để chuẩn bị ứng phó đợt lũ này, ông Đặng Văn Hòa cho biết từ ngày 28/9 đến cuối tháng 10, Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự thành phố đã ban hành 8 lệnh vận hành điều tiết để hạ dần mực nước các hồ: Tả Trạch về 29,34 trên 45 m; thủy điện Bình Điền về 77 trên 85 m; và Hương Điền 52,94 trên 58 m. Thành phố cũng liên tục cập nhật tình hình cho người dân qua tất cả kênh thông tin.

Dân Huế vốn đã “quen” với lũ. TP Huế có địa hình thấp, lại nằm trong tâm mưa lớn do ở ngay dải hẹp miền Trung, kẹp giữa dãy Trường Sơn và Biển Đông, tạo hiệu ứng chắn gió
mạnh. Khi gió mùa Đông Bắc mang hơi ẩm từ biển vào, hơi nước bị dãy núi chặn lại, ngưng tụ và gây mưa lớn. Địa hình dốc từ Tây sang Đông khiến
nước tập trung nhanh, làm mưa thêm dữ dội. Do đó, Huế là một trong những tỉnh có tổng lượng mưa cao nhất cả nước, khoảng 2.500-3.000 mm/năm với
nhiều đợt mưa lớn, kéo dài.

Trên lưu vực sông Hương – Ô Lâu, trung bình hàng năm có 3,5 trận lũ lớn hơn hoặc bằng báo động hai, năm nhiều nhất có 7 trận, ít nhất cũng một trận, trong đó 36% lũ lớn và đặc biệt lớn. Các đợt lũ thường kéo dài 3-5 ngày, dài nhất 6-7 ngày.

Thế nhưng năm nay, lũ kéo dài liên tục hai tuần.

Đây là trận lũ với lượng mưa rất lớn ở thượng nguồn trong thời gian ngắn. So với lũ lịch sử năm 1999, năm nay tổng lượng mưa ít hơn, nhưng cường suất cao hơn. Trong ba ngày từ tối 25 đến tối 27/10, lượng mưa tập trung ở lưu vực các hồ vượt 1.400 mm, trong khi lũ năm 1999 kéo dài 6 ngày, phân bố đều ở đồng bằng, lượng mưa vùng núi nhỏ hơn.

Bản đồ địa hình TP Huế – kẹp giữa dãy Trường Sơn và Biển Đông, tạo hiệu ứng chắn gió mạnh, gây mưa lớn, trong khi địa hình thấp nên dễ ngập. Đồ hoạ: Quang Tuệ

Sáng 27/10, lượng nước về các hồ cùng lên mức cảnh báo cao nhất, ba hồ đều phải đồng loạt xả lũ. Lưu lượng nước về hạ du cùng thời điểm lên tới 12.599 m3/s, nhiều nhất từ hồ Hương Điền, sau đó
là Bình Điền, và Tả Trạch.

“Lượng nước này có thể xô đổ mọi hệ thống phòng lũ nếu không được cắt giảm hợp lý”, ông Hòa kể.

Hai nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch có địa hình dốc nên nước chảy rất nhanh, dồn dập. Trung bình mất 2-4 giờ di chuyển từ thượng nguồn đến
hạ lưu.

Trước nguy cơ lũ lớn, Bí thư Thành ủy Nguyễn Đình Trung, cùng ông Phan Thiên Định và các Phó chủ tịch thành phố, lãnh đạo các cơ quan chia nhau đi kiểm tra thực tế và họp trực tuyến chỉ đạo ứng phó mưa lũ, vận hành hồ chứa. Quân đội, công an đều trực 100% quân số, các xã, phường thực hiện nghiêm phương án “4 tại chỗ” – chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; và hậu cần tại chỗ.

Bản đồ lưu vực sông Hương – sông Bồ và các hồ điều tiết lũ cho TP Huế. Trong đó, ba hồ chính là Tả Trạch, Bình Điền, Hương Điền. Đồ hoạ: Hoàng Khánh

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Đình Đức kể từ khoảng 10h sáng đến chiều tối 27/10 là thời điểm khó khăn nhất. Mỗi quyết định vận hành hồ chứa ảnh hưởng trực tiếp tới hàng nghìn hộ dân hạ lưu.

Về lý thuyết, công tác vận hành được thực hiện theo quy trình sẵn có, nhưng thực tế cần điều tiết linh hoạt giữa các hồ theo từng giờ, điều chỉnh kịp
thời cùng dự báo mưa, triều cường và mực nước hạ du. Trường hợp diễn biến thời tiết phức tạp vượt thẩm quyền, ông Đức trực tiếp xin chỉ đạo của Chủ tịch thành phố Phan Thiên Định ngay tại trụ sở.

Ban Chỉ huy xác định trong ba hồ lớn, Tả Trạch có nhiệm vụ chính là cắt giảm áp lực lũ cho hạ du. Nếu xả ồ ạt sẽ gây ngập nhanh, khiến người
dân không kịp ứng phó.

“Đêm 27/10, mắt anh Định gần như không rời khỏi màn hình. Khi các hồ đạt đỉnh, anh yêu cầu: ‘Phải giữ nước tại hồ, cầm chừng lũ đến sáng để bà con có thời gian ứng phó, không để lũ tràn về trong đêm’“, ông Hòa kể lại đêm “cân não” điều tiết lũ sau ngày mưa lịch sử tại Huế.

Cứ 6-10 tiếng, ông Định lại cập nhật tình hình lũ tăng – giảm trên Facebook cá nhân như một kênh thông tin cho người dân. Nhiều dòng trạng
thái được đăng lúc 3-4h sáng, thu hút hàng nghìn lượt tương tác. Song song đó, Trung tâm Điều hành Đô thị thông minh Hue-S liên tục phát bản tin cảnh báo trên báo đài, mạng xã hội…

Theo dự báo, mưa lớn chỉ kéo dài đến khoảng 12h hoặc 13h ngày 27/10, và tập trung ở khu vực Bạch Mã và Khe Tre. Nhưng thực tế, đợt mưa kéo dài đến tận 14h và còn tiếp diễn suốt đêm hôm đó.

“Lúc này, mực nước các hồ chứa đều ở mức rất cao. Chúng tôi phải tính toán những tình huống xấu nhất để có phương án xử lý phù hợp cho từng
hồ đập”, ông nói.

Chủ tịch TP Huế Phan Thiên Định túc trực tại trụ sở Chi cục Thủy lợi và Biến đổi khí hậu TP Huế để theo dõi mưa lũ, liên tục cập nhật diễn biến trên Facebook cá nhân. Ảnh:
Thạnh

Từ ngày 15 đến 28/10, các hồ vận hành liên tục giúp cắt giảm khoảng 700 triệu m3 nước, góp phần đáng kể trong giảm mức ngập vùng hạ du sông
Hương, sông Bồ. Ông Đức phân tích với tổng lưu lượng nước tại hai hồ Tả Trạch và Bình Điền cùng thời điểm lên tới 12.599 m3/s, nếu không cắt
giảm, mực nước sông Hương có thể lên mức 5,6-5,7 m (tại trạm Kim Long). Việc vận hành hồ đã giúp cắt giảm khoảng 0,55-0,65 m nước cho vùng hạ
du.

“Mỗi mét nước giảm được trên hồ đều có ý nghĩa quan trọng trong phòng, chống lũ”, ông Đức nói.

Rạng sáng 28/10, mưa giảm nhẹ, các hồ dần qua đỉnh lũ, dù vẫn trong trạng thái cảnh báo cao. Giai đoạn cao điểm, 32 trên 40 phường xã của
Huế chìm trong biển nước. Nước rút chậm do thủy triều, nhiều nơi ngập kéo dài hơn 10 ngày thay vì 3-5 ngày như thông thường. Dù vậy, số người
thiệt mạng đến 3/11 là 15, thấp hơn nhiều so với đợt lũ lịch sử năm 1999.

“Nếu không điều tiết nước hợp lý, Huế có thể chứng kiến một trận lũ 1999 thứ hai”, ông Đức nhận định.

Trong khi vùng hạ du “giằng co” điều tiết lũ, các khu vực trung du và miền núi đối mặt nguy cơ lũ quét, sạt lở lớn khi vùng đồi núi “ngậm
no nước” sau nhiều ngày mưa triền miên.

Phút sinh tử

Khoảng 9h ngày 27/10, anh Trần Văn Điền, 41 tuổi, ngồi trong bếp húp tô mì sau một đêm thấp thỏm thức trắng canh lũ, bỗng giật mình thấy nước sông dâng mấp mé nhà bếp, mang theo nhiều cành cây non tràn vào. Nước suối dưới chân nhà chảy mạnh và đục hơn mọi ngày, dâng lên rất nhanh. Anh dự cảm chẳng lành.

Đêm trước đó, Đà Nẵng mưa lớn ngày thứ 7 liên tiếp, phổ biến trên 100-300 mm mỗi 24 giờ. Anh cùng 11 hộ dân ở nóc Ông Yên, thôn Ngọc Giác, xã Trà Tân, gần như thức trắng canh lũ quét, sạt lở.

Trước sáp nhập, xã Trà Tân thuộc huyện Bắc Trà My – một trong 4 huyện miền núi thuộc Quảng Nam cũ có nguy cơ trượt lở rất cao, cùng với Nam Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn. Theo nghiên
cứu
Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam, chỉ cần mưa khoảng 100 mm, hoặc nhỏ hơn nhưng
kéo dài liên tục chục ngày, đủ khiến đất đá bão hòa nước, gây ra lũ quét kéo theo sạt lở đất. Cùng với đó, địa hình thấp dần ra biển với độ dốc
cao, địa chất phức tạp, lớp vỏ phong hóa dày, thảm phủ chủ yếu là rừng trồng, rừng tái sinh, cũng khiến tình trạng sạt lở thêm nghiêm
trọng.

5 năm trước, sạt lở từng vùi lấp 14 hộ dân ở xã Trà
Leng
– cách thôn anh Điền gần 40 km, khiến 22 người thiệt mạng. Đây trở thành nỗi ám ảnh của những hộ dân sống ở khu vực đồi núi như anh. Trong đợt mưa này, xã Trà Tân cũng nằm trong 60 phường xã có nguy cơ sạt lở rất cao của TP Đà Nẵng.

Thấy nước lên, anh cùng hàng xóm vội vàng hô hoán nhau cứu mấy bao gạo lên vị trí cao hơn. Một lúc sau, nước đỏ kéo theo bùn non từ trên đỉnh
đồi phía sau chảy xuống, anh mới vội vàng sơ tán đến nhà người thân ở khu vực cao, an toàn.

Từ trên đồi nhìn xuống thung lũng, anh thấy nước lũ từ trên núi tràn xuống ngày càng mạnh, căn nhà chìm dần.
Khoảng 11h, lớp bùn đỏ theo dòng suối ầm ầm đổ ập xuống, cao gần 10 m, “như sóng biển” cuốn trôi mọi thứ trên đường đi.

Chỉ sau 10 phút, 11 ngôi nhà nằm dọc thung lũng bị xé toang, cuốn trôi cột, thanh gỗ, hất bay phần mái lên bờ. Ruộng vườn, ao cá bị san phẳng,
chỉ còn sót lại gần 10 cây xanh. Ngôi nhà gỗ lợp tôn ngay dưới chân núi của vợ chồng anh Điền bị dòng nước “nuốt chửng” trong khoảnh khắc.

“Khi đó mà không di dời thì không biết như răng rồi, chắc trôi chứ còn gì nữa. Giờ mình cứu thân mình trước đã, tài sản để sau”, anh kể lại
giây phút sinh tử.

Từ khi lập làng năm 1976, nóc Ông Yên trải qua nhiều đợt mưa lớn nhưng chưa từng trải qua trận lũ quét, sạt lở nào hung dữ như vậy. May mắn
nhờ có sự chuẩn bị và cảnh giác từ trước, cả làng thoát nạn.

“Nếu không nhanh thì toàn bộ người dân trong làng bị cuốn trôi rồi. May mà lũ ban ngày, còn ban đêm thì thảm họa”, anh Điền nói.

anh-2a-1762267516-1414-1762280910.jpg

Nóc Ông Yên, thôn Ngọc Giác, xã Trà Tân sau và trước (ảnh vệ tinh) vụ lũ quét, sạt lở sáng 26/10. Ảnh: Đắc Thành, Hoàng Khánh

Khoảng hai tuần trước đợt mưa lớn, chính quyền thôn Ngọc Giác đã họp dân, thông báo về nguy cơ sạt lở, lũ quét và yêu cầu mọi người luôn trong tư thế sẵn
sàng sơ tán đến nơi trú tránh an toàn. Xã Trà Tân vốn thuộc “vùng lõm sóng” của TP Đà Nẵng. Sau sáp nhập,
Đà Nẵng có vùng nông thôn, miền núi rộng, chiếm tới 28% số vùng lõm sóng hoặc không có sóng trên cả nước.

Người dân không thể cập nhật tình hình thiên tai qua các kênh trực tuyến hay điện thoại. Thôn lại cách xa trụ sở xã, khoảng 25 km, khiến công tác ứng
cứu khó khăn. Do đó, chính quyền địa phương xác định tinh thần “4 tại chỗ”, liên tục nhắc nhở người dân chủ động đề cao cảnh giác.
Sáng 26/10, cán bộ xã một lần nữa đi vòng quanh thôn cảnh báo đợt mưa lũ lớn, đồng thời di dời một số hộ dân đến vị trí an toàn.

Ông Nguyễn Hồng Lai, Bí thư xã Trà Tân, cho biết từ tháng 8 – thời điểm đầu mùa mưa bão, Ban Chỉ hạo Phòng thủ dân sự xã đã xác định các
điểm có nguy cơ lũ lụt, sạt lở đất, lũ ống, lũ quét để phòng tránh, di dời 106 hộ dân. Sau đợt mưa lũ, toàn xã có 32 nhà bị vùi
lấp hoàn toàn, 30 nhà bị vùi lấp một phần, chưa có thiệt hại về người.

Anh Trần Văn Hán (42 tuổi), một trong số 11 hộ dân thuộc nóc Ông Yên, thôn Ngọc Giác, bên một phần mái nhà sau trận lũ quét. Ảnh: Đắc Thành

Nhìn lại trận mưa lũ lịch sử, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Lê Ngọc Quang cho biết sau lũ, nỗi lo lớn nhất của cả chính quyền và người dân là sạt
lở. Quảng Nam cũ là nơi từng xảy ra nhiều vụ sạt lở gây thiệt hại lớn, gần nhất là năm 2020, khi 4 đợt lũ lớn khiến 46 người chết, 17 người mất
tích.

Năm nay, mưa lớn kéo dài khiến đất “no nước”, mất kết dính, khu vực miền núi xảy ra nhiều vùng sạt lở nghiêm trọng, đặc biệt ở miền Tây của
Quảng Nam cũ – nơi có địa hình chia cắt và nhiều đồi núi. Tuy nhiên, tính đến ngày 3/11, Đà Nẵng ghi nhận 14 người thiệt mạng do thiên tai, không
có vụ sạt lở nào gây thiệt hại lớn.

“Điểm sáng lớn nhất là công tác di dời dân”, ông Quang đánh giá.

Thành phố đã kiên quyết di dời 16.000 người dân khỏi vùng có nguy cơ sạt lở cao và ngập sâu, góp phần giảm tối đa nhân mạng, nhất là
vùng núi cao bị sạt lở liên tục. Nhờ đó, dù có nơi lũ bùn “xóa sổ” cả bản làng như ở xã Trà Tân, may mắn không có thương vong.

‘Phép thử’ của thiên tai

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp đánh giá lũ năm nay tại Huế và Đà Nẵng vượt mốc lịch sử năm 1964 là “rất khủng khiếp”.
Lượng mưa và đỉnh lũ liên tiếp thiết lập nhiều kỷ lục mới
trong thời gian ngắn.

“Riêng lũ lần này có ba đỉnh lũ thiết lập liên tiếp vào ngày 27, 28, 29/10. Cứ hết đỉnh này nó giảm xuống chút lại đến đỉnh mới và cứ đỉnh sau
lại cao hơn đỉnh trước. Chưa bao giờ từng có đợt lũ như thế này ở miền Trung”, ông nói.

Tuy nhiên, dù thiên tai khốc liệt, ông đánh giá rủi ro về số người chết, bị thương, thiệt hại về kinh tế thấp hơn so với năm 2024.

Tính đến
3/11, 7 tỉnh miền Trung ghi nhận 40 người chết, 6 người mất tích do mưa lũ, ngập lụt. Trong đó, số người thiệt mạng tại “tâm lũ” Huế và Đà Nẵng
lần lượt là 15 và 14 người.

Để chuẩn bị cho đợt lũ này, từ ngày 22/10, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thông báo đến các địa phương về đợt mưa rất lớn trong 4 ngày,
và lấy đợt lũ lịch sử năm 2020 làm mốc căn cứ cho các tỉnh thành tính toán phương án phòng ngừa.

Theo ông, điểm khác biệt lớn so với mọi năm là sau sáp nhập và thay đổi chính quyền hai cấp, mỗi xã rộng hơn nhiều trong khi lực lượng chưa
được tăng cường đầy đủ. Do đó, địa phương phải chủ động chọn điểm xung yếu để ứng trực.

“Đợt lũ này là một ‘phép thử’ cho mô hình chính quyền địa phương hai cấp mới và các cơ quan phòng thủ dân sự cấp thành phố, địa phương vừa
được thành lập”, ông Lê Ngọc Quang, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, đánh giá.

Theo ông, mô hình hai cấp (thành phố – xã, phường) phát huy rõ hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành. Sự phân cấp, ủy quyền rõ ràng giúp rút ngắn thời
gian xử lý tình huống, tăng tính chủ động cho chính quyền cơ sở. Các đơn vị cơ sở rất chủ động, phát huy tốt nguyên tắc “bốn tại chỗ”.

Nói về giải pháp lâu dài để ứng phó sạt lở, ông Quang cho biết thành phố đang lên kế hoạch cho dự án rà soát và quy hoạch khu dân cư
mới ở các vùng có nguy cơ sạt lở cao như bản làng, nóc ở lưng chừng núi.

“Việc người dân sinh sống rải rác tại những đồi núi cheo leo là rất đáng lo ngại và tiêu tốn nhiều nguồn lực mỗi khi có thiên tai”, ông
nói.

Một vấn đề cấp thiết khác là thiết lập thông tin liên lạc xuyên suốt. Ông cho biết đợt lũ vừa qua, nhiều khu vực ngập sâu mất
sóng Mobifone, hoặc khu vực miền núi không có sóng điện thoại, gây khó khăn cho công tác cứu hộ. Trước mắt, thành phố sẽ trang bị điện thoại vệ
tinh cho cán bộ xã, phường để giữ liên lạc trong tình huống khẩn cấp. Về lâu dài, Đà Nẵng dự kiến phối hợp các nhà mạng tăng cường trạm và mở rộng
vùng phủ sóng.

Đối với vùng ngập lụt ở hạ du, Chủ tịch TP Huế Phan Thiên Định đánh giá trong đợt lũ vừa qua, các hồ đập đã cắt lũ rất tốt, giúp giảm
khoảng nửa mét nước lũ cho vùng hạ du. Việc kiểm soát đỉnh lũ, đẩy thời điểm lũ cao nhất từ ban đêm sang ban ngày giúp khả năng ứng cứu hiệu quả
hơn, người dân bình tĩnh hơn, chính quyền triển khai được nhiều phương án thoát hiểm.

“Nửa mét nước này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu nước chỉ cao thêm một chút, số người chết sẽ
rất lớn”, ông nói.

Đồng quan điểm, ông Phạm Công Thành, Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi Bắc Trung Bộ, Viện Quy hoạch Thủy lợi, phân tích so với lũ lịch sử năm
1999, năm nay tổng lượng mưa ít hơn, nhưng cường suất mưa cao hơn dẫn đến áp lực lớn cho hệ thống hồ chứa thượng nguồn. Sau hai tuần, dù diện tích ngập vẫn lớn, thiệt hại thấp
hơn nhiều so với các đợt lũ lịch sử, cho thấy điều tiết lũ hiệu quả.

Để giảm diện tích và thời gian ngập cho vùng hạ du Huế, ông Thành cho rằng cần nghiên cứu thêm hướng thoát lũ mới tại hồ Bình Điền và Hương
Điền, điều chỉnh hạ mực nước đón lũ để tạo thêm không gian phòng lũ cho hạ du và cắt được đỉnh lũ. Đồng thời, ông đề xuất nâng dung tích cho hồ Tả Trạch từ 45 m lên 47 m để tăng khả năng chứa lũ.

“Nếu không có hồ chứa vận hành cắt lũ ở thượng nguồn, mực nước tại Huế đợt lũ này có thể cao hơn thực tế 0,7-0,8 m, gần tương đương năm đại
hồng thủy 1999, thiệt hại sẽ rất lớn”, ông đánh giá.

Chùa Cầu – biểu tượng của phố cổ Hội An, bị lũ bủa vây chiều 3/11. Người dân phải dùng thuyền di chuyển trong phố cổ khi những tuyến đường ven sông ngập khoảng 2 m trong ngày nước lũ dâng cao. Ảnh: Nguyễn Đông

Nội dung: Võ Thạnh – Đắc Thành – Nguyễn Đông – Mây Trinh – Gia Chính
Dữ liệu: Đăng Tuệ
Đồ hoạ: Khánh Hoàng