Bình xịt hen ứng dụng chất khí đẩy hydrofluoroalkane (HFA) để chuyển thuốc thành dạng sương, đây là chất ô nhiễm gấp hàng nghìn lần CO2.
Các bác sĩ và nhà khoa học từ Đại học California tại Los Angeles (UCLA, Mỹ) công bố nghiên cứu về lượng khí thải của bình xịt hen tại Mỹ trên tạp chí y khoa Jama, ngày 6/10.
Bình xịt dùng chất đẩy (MDI) là phương pháp điều trị phổ biến cho bệnh hen suyễn và tắc nghẽn phổi mãn tính. Loại này được dùng bên cạnh bình hít bột khô (DPI) và bình hít hạt mịn (SMI). Bình MDI phát thải cao hơn nhiều lần các loại khác bởi chúng sử dụng chất khí đẩy HFA để chuyển thuốc thành dạng sương.
HFA là chất siêu ô nhiễm, ví dụ chất HFA134a có khả năng làm nóng toàn cầu gấp 1.430 lần khí CO2.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học UCLA với 3 loại bình xịt trên, nước Mỹ đã sử dụng 1,6 tỷ bình, thải 24,9 triệu tấn CO2 trong giai đoạn 2014-2024 (11 năm). Với mức thải trung bình hơn 2 triệu tấn CO2, bình xịt hen có lượng thải tương đương 530.000 ôtô xăng mỗi năm.
Với lượng thải khổng lồ trên, chi phí xã hội ước tính từ khí thải bình xịt là 5,7 tỷ USD.

Một người phụ nữ dùng bình xịt chất đẩy MDI. Ảnh: AP
Bình xịt khí đẩy (MDI) là loại gây hại nhất cho môi trường, chiếm 98% lượng khí thải trong 10 năm. Hai loại còn lại gồm cạnh bình hít bột khô (DPI) và bình hít hạt mịn (SMI), ít gây hại hơn vì chúng đưa thuốc vào phổi mà không dùng chất đẩy.
Nghiên cứu dựa trên dữ liệu đơn thuốc bình hít theo quy định của Mỹ, từ đó ước tính toán lượng khí thải theo từng loại thuốc, thiết bị, chất đẩy, nhóm điều trị, tình trạng nhãn hiệu, nhà sản xuất, đơn vị thanh toán và đơn vị quản lý dược phẩm.
“530.000 ôtô lưu thông trên đường mỗi năm là một con số lớn. Tôi nghĩ đây là chủ đề thực sự quan trọng vì tình trạng này có thể khắc phục được với nhiều giải pháp”, TS William Feldman, bác sĩ chuyên khoa phổi và nhà nghiên cứu dịch vụ y tế tại Đại học Y David Geffen (thuộc UCLA), đồng thời là tác giả chính của nghiên cứu, nói.
Bởi về mặt y khoa, chỉ một phần nhỏ bệnh nhân cần dùng bình xịt định liều, gồm người già và trẻ nhỏ – những người phổi không đủ để tạo lực hít vào.
“Nhưng phần lớn mọi người có thể sử dụng loại hít bột khô hoặc hạt mịn”, Feldman cho biết, đồng thời lưu ý rằng người dân các quốc gia như Thụy Điển và Nhật Bản sử dụng bình xịt thay thế mà không gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
Rào cản trong việc dùng bình hít thân thiện môi trường là vấn đề bảo hiểm và thị trường. Bác sĩ Feldman nói một loại bình hít bột khô phổ biến nhất trên thị trường lại thường không được bảo hiểm chi trả, khiến chi phí đắt hơn đáng kể. Một loại thuốc phổ biến khác bán rộng rãi ở châu Âu, nhưng không có sẵn ở Mỹ.
Ông nhấn mạnh rằng mục tiêu của nghiên cứu không phải là đổ lỗi cho bệnh nhân mà là hướng tới vấn đề cải cách chính sách và giá.
“Tôi nghĩ rằng chúng ta, với tư cách là một xã hội, có trách nhiệm cung cấp những loại thuốc đó cho bệnh nhân theo cách bền vững và điều đó cuối cùng được thực hiện ở cấp cao nhất”, ông nói.
Nhóm chuyên gia dự định mở rộng nghiên cứu nhằm xem xét lượng khí thải liên quan đến bình hít ở các nhóm bệnh nhân cụ thể, như nhóm tham gia chương trình Medicaid. Từ đó, họ sẽ so sánh kết quả lâm sàng giữa bình hít khí thải thấp và cao trong cùng một nhóm điều trị.
Họ cũng khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách và cơ quan quản lý xác định các giải pháp cụ thể nhằm chuyển đổi việc sử dụng sang loại bình hít bột khô và hạt mịn có sẵn trên thị trường. Đồng thời, việc đưa vào sử dụng các sản phẩm định liều mới, giá phải chăng, chứa chất đẩy gây ô nhiễm thấp cần được tạo điều kiện.
Liên quan đến chấy đẩy ô nhiễm thấp, nhóm nghiên cứu khác từ Đại học Monash (Australia) đã gợi ý HFA152a và HFO1234ze, với khả năng làm nóng toàn cầu lần lượt tương đương 124 và 7 lần khí CO2, thấp hơn nhiều HFA134a.
Bảo Bảo (theo AFP, Phys, Jama)