Những cựu binh nhiều lần trở lại thành cổ Quảng Trị

Quảng TrịÔng Lê Kim Nghiễn ba lần, ông Phạm Văn Hùng 13 lần trở lại thành cổ và lần nào cũng rưng rưng khi nhớ lại những đồng đội đã nằm xuống.

Giữa tháng 9, ông Lê Kim Nghiễn, 75 tuổi, ở Phú Thọ, dẫn đầu đoàn 10 người thân thăm thành cổ Quảng Trị. Lần thứ ba trở lại, bước qua cổng chính thành cổ, ông đứng lặng, trầm ngâm nhìn lên đài tưởng niệm như một nấm mộ chung của hàng nghìn liệt sĩ. “Tôi nhớ đồng đội từng kề vai sát cánh và ngã xuống nơi này”, ông nói.

Mua lễ vật và vòng hoa, ông yêu cầu con cháu liên hệ khu di tích bố trí một hướng dẫn viên, không được dùng loa đài mở sẵn mà nói trực tiếp để người thân cảm nhận sự đau thương, mất mát ở nơi này.

“Họ sẽ kể cho mọi người hiểu được 81 ngày diễn ra ác liệt như thế nào. Bao nhiêu chàng trai đã ngã xuống trong những đợt phản công của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để giữ từng tấc đất, ngôi nhà, qua đó nhắc nhở không được quên sự hy sinh của thế hệ cha anh”, ông giải thích.

Cựu binh đưa con cháu đến thành cổ Quảng Trị tri ân

Ông Lê Kim Nghiễn chia sẻ ký ức về thành cổ Quảng Trị. Video: Đắc Thành

Ông Nghiễn nhập ngũ năm 1971 khi 19 tuổi. Sau thời gian huấn luyện, ông đến Quảng Trị đầu năm 1972, là lính thông tin Đại đội 18, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Tham gia chiến dịch xuân hè năm 1972, đơn vị ông bị quân đội Việt Nam Cộng hòa với sự hậu thuẫn của Mỹ đẩy qua sông Mỹ Chánh vào Thừa Thiên.

Mất căn cứ chiến lược tại Quảng Trị ngày 1/5/1972, nguy cơ mất tiếp tỉnh Thừa Thiên, đổ vỡ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ bổ sung khí tài để quân đội Việt Nam Cộng hòa phản công chiếm lại Quảng Trị, đặc biệt là thành cổ. Địa bàn này có vai trò quan trọng về chính trị, ngoại giao, tác động trực tiếp tới vị thế các bên trong cuộc đàm phán ở Paris.

Bị phản công, đơn vị ông Nghiễn rút về phía bắc sông Thạch Hãn. Khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức các cuộc phản công mang mật danh “Lam Sơn 72” để tái chiếm Quảng Trị, bắt đầu 81 ngày đêm bắn phá khu vực thành cổ, ông Nghiễn nhận nhiệm vụ nạp điện ắc quy để phục vụ máy vô tuyến cho đồng đội và cầm súng chiến đấu như lính bộ binh.

“Tôi bị thương rồi được đưa qua sông Thạch Hãn về hậu cứ điều trị, sau đó quay lại chiến đấu”, ông kể.





Ông Lê Kim Nghiễn bật khóc khi nghe hướng dẫn viên khu di tích nói về những ngày chiến tranh ác liệt. Ảnh: Đắc Thành

Ông Lê Kim Nghiễn bật khóc khi nghe hướng dẫn viên khu di tích nói về những ngày chiến đấu khốc liệt. Ảnh: Đắc Thành

Năm 1973, hiệp định Paris được ký kết, ông Nghiễn bị thương, được chuyển ra Bắc điều trị và đi học. Cuộc chiến tranh phía Bắc năm 1979 nổ ra, ông tiếp tục chiến đấu 10 năm ở Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang cũ. Trải qua nhiều chiến trường, hàng trăm trận đánh, với ông thành cổ Quảng Trị là “khốc liệt nhất”.

Mỗi ngày từng đoàn quân tuổi 18-20 chưa biết đến cái nắm tay bạn gái hay nụ hôn đầu đời đã vượt sông Thạch Hãn vào thành cổ chiến đấu và hy sinh. “Biết đi vào là chết nhưng vì Tổ quốc họ sẵn sàng lên đường. Cả một thế hệ tuổi trẻ không tiếc gì xương máu”, ông nói.

Có những tiểu đội được bổ sung vào thành cổ, nhưng sau một đêm chiến đấu không còn ai sống sót. Đại đội của ông Nghiễn chia làm ba tổ, kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu, ông không gặp lại ai.

Năm 1999, ông Nghiễn lần đầu trở lại thành cổ, thắp hương cho đồng đội ở đài tưởng niệm, ra sông Thạch Hãn thả hoa đăng. Bốn năm sau, khi đã nghỉ hưu, ông quay lại dịp 27/7 để tri ân người ngã xuống. Với lần thứ ba này, ở tuổi 75, sức khỏe yếu dần nên ông yêu cầu con cháu đi cùng.

Nghe thuyết minh của hướng dẫn viên, ký ức xưa trở về, ông Nghiễn rưng rưng, lấy tay bụm miệng kìm tiếng khóc. “Đến được đây thắp nén hương, nhìn thành cổ và dòng Thạch Hãn nay đã rộng, sâu hơn trước, tôi thấy lòng thanh thản”, ông chia sẻ.





Các chiến sĩ Đại đội 4, phân đội 8 vượt sông chi viện cho thành cổ. Ảnh: Bảo tàng thành cổ

Các chiến sĩ Đại đội 4, phân đội 8 vượt sông chi viện cho thành cổ. Ảnh: Bảo tàng thành cổ

Trở lại tìm cha con người lái đò

Giống ông Nghiễn, cựu binh Phạm Văn Hùng, 80 tuổi, nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn 74, Cục Tình báo (Bộ Tổng tham mưu) đã 13 lần đến thành cổ. Ông tâm niệm còn sức khỏe còn trở lại vào dịp tháng 7, tháng tri ân các anh hùng liệt sĩ.

Nhập ngũ năm 1966, ông Hùng tham gia nhiều chiến trường từ miền núi đến đồng bằng ở Quảng Trị. Trước cuộc chiến 81 ngày đêm, ông ở thành cổ trinh sát. Như bao đồng đội, ông bám trụ, hoạt động trong thành và thị xã Quảng Trị.

Đơn vị ông Hùng biên chế 120 người, trong đó có một tiểu đội mật mã thông tin liên lạc, còn lại chia thành bốn phân đội trinh sát, mỗi người hoạt động độc lập. Sau hơn một tháng chiến đấu, ngày 2/8/1972, ông bị thương nặng, được chuyển xuống căn hầm ở Dinh tỉnh trưởng, nơi chỉ huy của quân giải phóng miền Nam.

Tại dinh có một hầm thông ra sông Thạch Hãn, ông Hùng nằm chờ để qua sông về hậu cứ điều trị. Trong lúc được chuyển ra sông, ông lại trúng bom Mỹ. Thương tích khắp cơ thể, ông được đưa lên thuyền chở qua sông.

“Nằm trên thuyền, tôi chỉ hé được một mắt thấy người đàn ông cởi trần, thân hình vạm vỡ, bộ răng đen. Trên thuyền còn có một cô gái. Hai người đưa tôi qua sông kịp chuyển đến nơi điều trị”, ông kể, nói hình ảnh này ăn sâu vào trí nhớ.

Sau khi ra miền Bắc điều trị, ông Hùng dần hồi phục và ra quân tháng 2/1973. Chiến tranh kết thúc, đơn vị ông có 120 người thì 72 người hy sinh, trong đó 19 người có tên được quy tập ở Nghĩa trang liệt sĩ đường 9. Còn ông đi học đại học và về công tác ở Nhà máy Gang thép Thái Nguyên.

Sau ngày thống nhất đất nước, ông quay lại thành cổ Quảng Trị thăm đồng đội và tìm gặp người lái đò năm xưa. Cựu binh đến các làng quê ven sông Thạch Hãn gặp người dân, miêu tả lại người lái đò, nhưng không ai biết.

“Cuối năm 1992, khi khánh thành đài tưởng niệm thành cổ, tôi đi xem và phát hiện bức ảnh Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức cho thành cổ, do nhà báo Đoàn Công Tính chụp. Sau 20 năm, tôi chỉ lướt thoáng qua song đã xác định chắc chắn đó là người chở qua sông”, ông kể.

Ông gặp Ban quản lý khu di tích hỏi tung tích nhân vật trong ảnh và được biết người đàn ông đã qua đời, cô gái là Nguyễn Thị Thu đang sống ở làng Giang Hến, xã Triệu Giang. Ông vui mừng tìm đến nhà ân nhân để nói lời cảm ơn và mời vợ chồng bà Thu ra miền Bắc chơi.





Ông Hùng bên trái trong một lần đến thắm vợ chồng bà Thu. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Ông Hùng (bên phải) trong một lần đến thăm vợ chồng bà Thu. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Dịp 27/7 hay 2/9, nhất là sau khi bộ phim “Mưa đỏ” được công chiếu, trong dòng người đến thăm thành cổ Quảng Trị có rất nhiều người như ông Nghiễn, ông Hùng. Họ trở lại để ôn lại một thời khói lửa, tri ân đồng đội và những người dân đã cưu mang, đồng thời nhắc nhở con cháu không quên sự hy sinh của cha anh.

Đắc Thành