Trong cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị, bà Nguyễn Thị Thu cùng cha lái đò chở bộ đội vượt sông Thạch Hãn, khi về lại chở thương bệnh binh.
Những ngày gần đây, sau khi phim “Mưa đỏ” công chiếu, bà Nguyễn Thị Thu, 71 tuổi, xã Triệu Phong tiếp đón nhiều người đến thăm. Bà là nguyên mẫu nhân vật O Hồng, cô lái đò chở chiến sĩ qua sông Thạch Hãn. Trong căn nhà cấp bốn ở xã Triệu Phong, bà chậm rãi kể lại cuộc đời gắn với những chuyến đò.
Bà Thu sống cùng cha mẹ và ba người anh ở xã Triệu Giang cũ, thuộc vùng giải phóng. Sau hiệp định Geneve ký kết ngày 20/7/1954, vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới chia cắt tạm thời hai miền Nam – Bắc. Một phần Quảng Trị từ sông Bến Hải trở ra Bắc được giải phóng, phía Nam sông (gồm thị xã Quảng Trị) nằm dưới quyền kiểm soát của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Trong hai đợt tấn công trong chiến dịch xuân hè năm 1972, đến ngày 1/5/1972, quân giải phóng miền Nam Việt Nam giành quyền kiểm soát hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Bị mất căn cứ chiến lược tại Quảng Trị và nguy cơ mất tiếp tỉnh Thừa Thiên, đổ vỡ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ bổ sung khí tài để quân đội Việt Nam Cộng hòa phản công chiếm lại Quảng Trị, đặc biệt là thành cổ – nơi có vai trò quan trọng về chính trị, ngoại giao, là biểu tượng cho ý chí của mỗi bên.
Sáng 28/6/1972, chính quyền Việt Nam Cộng hòa với sự hậu thuẫn của Mỹ tổ chức các cuộc phản công mang mật danh “Lam Sơn 72” để tái chiếm Quảng Trị, bắt đầu 81 ngày đêm bắn phá khu vực thành cổ. Mục đích của đối phương là cắm được cờ lên thành cổ vào ngày 10/7, tức ba ngày trước khi Hội nghị Paris dự kiến diễn ra để gây áp lực trên bàn đàm phán.

Bà Thu cùng bức ảnh do nhà báo Đoàn Công Tính chụp cha con bà lái thuyền đưa bộ đội qua sông Thạch Hãn năm 1972. Ảnh: Đắc Thành
Bom đạn oanh tạc suốt ngày, người dân loạn lạc, người vào Nam, kẻ ra Bắc. Cha mẹ bà Thu sơ tán ra Quảng Bình (cũ), ba anh trai vào miền Nam. Bà Thu ở lại tham gia du kích xã. Năm 1971, lúc 17 tuổi, bà làm lễ ăn hỏi với ông Nguyễn Câu, làm nghề cào hến trên sông Thạch Hãn. Chồng chưa cưới chạy loạn vào phía Nam, bị bắt đi lính Việt Nam Cộng hòa ở Đà Nẵng.
Chưa tổ chức lễ cưới nhưng bà Thu được xem như con dâu nên chuyển về sống cùng nhà với cha chồng Nguyễn Con ở làng Giang Hiến, bên sông Thạch Hãn, cách thành cổ khoảng hai km. Hàng ngày, ông Con lái thuyền gỗ gắn máy đi cào hến mưu sinh. Khi thành cổ Quảng Trị trở thành tâm điểm của cuộc chiến, ông Con xung phong lái thuyền đưa bộ đội vượt sông Thạch Hãn vào thành.
Sông Thạch Hãn khi ấy là con đường duy nhất nối hậu phương với chiến trường thành cổ. Từ cầu Thạch Hãn xuôi đến thành cổ khoảng 1,5 km, mùa hè nước cạn, có nhiều đoạn bộ đội lội hoặc bơi quãng ngắn. Xuôi về hạ du, sông sâu, rộng, để vượt qua bộ đội phải đi thuyền. “Thấy bộ đội từ miền Bắc vào hầu hết là chàng trai thư sinh, có thể không thạo sông nước, lại mang nhiều tư trang nên cha tôi tình nguyện nhận nhiệm vụ chở bộ đội qua sông”, bà Thu giải thích.
Vượt bom đạn đưa bộ đội qua sông
Hàng ngày bà Thu chứng kiến cha chồng và một số người khác lái thuyền đưa bộ đội từ bờ bắc sang bờ nam sông Thạch Hãn và chở người bị thương về hậu cứ. Trong khi đó, máy bay B52 liên tục thả bom, khói mù mịt, pháo từ ngoài biển liên tiếp bắn vào. Không yên tâm khi cha một mình lái thuyền, bà Thu xin đi hỗ trợ. “Ngày đó lái thuyền máy chỉ có đàn ông, không cô gái nào tuổi như tôi xin đi hỗ trợ cả”, bà Thu kể.
Bộ đội tập kết gần nhà bà Thu chờ lệnh xuất phát. Thuyền rời bến, bà ngồi ở mũi quan sát máy bay và pháo tập kích. Mỗi khi B52 xuất hiện, bầu trời có vệt khói dài thì bà thông báo cho cha nhanh chóng tấp vào bờ. Gần đến bờ nam phía thành cổ, ông Con tắt máy, bà Thu ghìm mái chèo, để dòng nước tự đưa thuyền cập bờ, bộ đội dễ dàng nhảy lên. Lúc quay về, phải chở thương binh nên cha con bà lái thuyền thật êm, giảm thiểu va chạm làm vết thương nặng thêm.
Trong cuộc chiến 81 ngày đêm, thị xã Quảng Trị gần như bị san phẳng, còn sót lại trường Bồ Đề chưa đổ sập. Ban ngày địch tập trung đánh phá, nếu qua sông dễ bị phát hiện nên nhiều ngày hai cha con phải chờ đêm xuống. Nhưng ban đêm, địch lại thả đèn dù, mỗi đèn cháy khoảng hai giờ khiến trời sáng trưng, hai cha con phải tìm cách tránh bị phát hiện. “Có hôm địch dội bom, cha con tôi phải ghìm lái, chờ sóng lắng xuống rồi mới tiếp tục. Tôi vừa ôm súng, vừa chèo thuyền, cố giữ bình tĩnh để không bị lật”, bà nhớ lại.

Sông Thạch Hãn đoạn chảy qua thành cổ Quảng Trị. Ảnh: Đắc Thành
Mùa mưa, nước sông Thạch Hãn dâng cao, dòng chảy thay đổi từng giờ. Ai không quen dễ bị nước cuốn lạc dòng, riêng cha chồng bà Thu cả đời gắn với sông, rành từng khúc nước chảy, từng bãi cát cạn nên bày cho bà cách điều khiển mái chèo phía trước mũi sao cho an toàn. Mỗi ngày hai cha con chở từ 5 đến 10 chuyến, mỗi chuyến 10 người, ngày cao điểm vài chục chuyến. Thuyền không chỉ hoạt động một tuyến cố định mà tỏa đi nhiều điểm.
Nhiều lần thuyền đang qua sông thì bị địch thả bom, các chiến sĩ nằm lên hai cha con để che chắn. “Bộ đội thương cha con tôi lắm. Mỗi lần chèo gần đến bờ, các anh nhảy xuống giữ thuyền, không cho tôi xuống giữ”, bà kể. Một lần thuyền gần qua hết sông thì máy bay địch xuất hiện, bà nhảy xuống nước đúng lúc bom dội xuống. Sức ép của bom làm bà ngất lịm, để lại di chứng đau đầu tới ngày nay.
Dù tuổi cao, trí nhớ giảm, bà Thu bảo không quên được những gương mặt trai trẻ cười hiền khô vẫy tay chào trước khi vào trận địa, những thương binh chưa kịp về hậu cứ điều trị đã trút hơi thở cuối cùng. “Tôi nhớ mãi lần thuyền gần cập bờ bắc, một chiến sĩ bị thương nặng, hét gọi Mẹ ơi! Mẹ ơi… rồi tử vong khi chưa về kịp bệnh xá”, bà hồi tưởng.
Phần lớn thời gian dành cho việc lái đò, không thể đi cào hến, nhưng cha con bà Thu không bị đói. Họ sống bằng lúa gạo người dân vứt bỏ khi chạy loạn và lương khô của bộ đội. Nhiêu liệu cho thuyền máy được bộ đội cung cấp. “May mắn trong suốt cuộc chiến, thuyền không bị hư hỏng. Cha chồng sức khỏe tốt, không bị ốm nên ngày đêm lái thuyền, việc đưa bộ đội qua không bị gián đoạn”, bà nói.
Bà Thu kể lại cùng cha đưa bộ đội qua sông. Video: Đắc Thành
Theo tư liệu ở Bảo tàng thành cổ Quảng Trị, tổng số bom đạn Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ném xuống thành cổ và thị xã Quảng Trị (rộng hơn 3 km2) trong chiến dịch tái chiếm 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử. Trong đó, đối phương rải 328.000 tấn bom, 552.000 viên đạn 105 mm, 55.000 viên đạn 155 mm, 8.164 viên đạn 175 mm. Hải pháo Mỹ bắn 615.164 viên, máy bay Mỹ oanh kích 1.650 lần, máy bay Việt Nam Cộng hòa 594 lần.
Nói về sự khốc liệt của cuộc chiến ở thành cổ, thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 2, lúc đó là Trung đoàn phó Trung đoàn 9 Sư đoàn 304, từng chia sẻ với VnExpress khó có thể nhớ lại trận nào bị công kích dữ dội nhất, bởi cả 24 giờ trong 81 ngày đó, lúc nào “địch cũng đánh phá ác liệt”. “Mất mát, thương vong của ta là rất lớn, đến nay còn chưa thống kê được hết. Trung bình, một ngày đêm ta hy sinh một đại đội, tức khoảng 100 người”, ông kể.
Cuộc sống thời bình
Ngày 16/9/1972, bộ đội rút khỏi thành cổ, cuộc chiến 81 ngày đêm kết thúc, bà Thu tiếp tục làm du kích. Cha chồng cùng chiếc thuyền gắn bó với nghề cào hến. Năm 1975, đất nước hòa bình, bà Thu được cho đi học ba tháng xóa mù chữ nhưng do lớn tuổi nên không tiếp thu, hiện không biết chữ. Ông Nguyễn Câu sống sót trở về, sau thời gian cải tạo đã tổ chức đám cưới với bà.
Năm 1978, cha chồng qua đời do bệnh tật, vợ chồng bà Thu tiếp tục làm nghề cào hến trên Thạch Hãn nuôi bốn 4 người con. “Nhiều người nói sao không làm chế độ chính sách cho mình, tôi trả lời được sống là may mắn lắm rồi. Chiến tranh khiến hàng nghìn người nằm lại dưới lòng sông Thạch Hãn, trong lòng đất thị xã Quảng Trị”, bà chia sẻ. Năm 2024, bà được hưởng chế độ du kích bị nhiễm chất độc da cam, mỗi tháng 2,1 triệu đồng.
Phim “Mưa đỏ” công chiếu nhưng vì sức khỏe và di chuyển xa nên bà chưa xem, dù mọi người nói bà là nguyên mẫu của nhân vật O Hồng. Chiều 9/9, vợ chồng bà được một số người hỗ trợ đưa đến phim trường cách nhà khoảng 10 km. “Xem cảnh bộ đội chết trôi sông, có người vùi trong bùn đất, ký ức năm xưa lại trỗi dậy. Tôi run lên từng hồi”, bà kể.

Bà Thu cùng chồng xem phim ‘Mưa đỏ’ chiều 9/9 tại rạp phim. Ảnh: Minh Anh
Niềm vui của bà Thu là thi thoảng gặp cựu binh từng tham gia cuộc chiến bảo vệ thành cổ Quảng Trị. Ngày cuối năm 1992, một cựu binh tìm về nhà, giới thiệu là Phạm Văn Hùng, quê Thái Nguyên. “Sau nhiều năm tìm kiếm, giờ tôi mới tìm được hai cha con chèo đò đưa qua sông năm xưa”, bà Thu nhắc lại lời cựu binh. Bản thân bà không nhớ hết bao nhiêu lần chở bộ đội qua sông, cũng không thể nhớ mặt các anh. Mỗi chuyến đò gấp gáp, họ hầu như không trò chuyện.
Năm 2007, kỷ niệm 35 năm cuộc chiến bảo vệ thành cổ, nhiếp ảnh gia, nhà báo Đoàn Công Tính in tấm ảnh chụp hai cha con đến nhà tặng bà Thu. Bức ảnh chụp năm 1972, đặt tên “Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức cho thành cổ”. Trong ảnh, ông Nguyễn Con lái thuyền máy, nở nụ cười khoe hàm răng đen, bên cạnh là con dâu ôm súng, phía sau là 10 người lính giải phóng tươi cười. Bức ảnh hiện được đóng khung, treo trang trọng trong nhà.
Ông Đặng Sỹ Dũng, Chủ tịch xã Triệu Phong, nói bức ảnh cha con bà Thu cũng như nhân vật O Hồng trong phim “Mưa đỏ” đã thể hiện sự kiên cường của người dân Quảng Trị trong cuộc chiến bảo vệ thành cổ. Thời đó, ở phía bắc sông Thạch Hãn gồm xã Triệu Thành, Triệu Thượng, Triệu Giang, Triệu Ái cũ…, người dân tham gia dân quân, du kích. Ngoài trực tiếp cầm súng chiến đấu, họ lái thuyền đưa bộ đội, vũ khí, lương thực qua sông, sau đó lại đưa thương binh và người hy sinh về bờ điều trị và an táng. Nhiều lái đò đã hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ.
Đắc Thành