Những tờ giấy bạc đầu tiên dưới nền độc lập của Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời khi ngân khố chỉ còn phần lớn là đồng bạc lẻ rách nát.
Năm 1945, đồng chí Phạm Văn Đồng, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính – nhận đề bài từ Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát hành đồng tiền Việt Nam đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thời điểm này, tiền Đông Dương đang là loại tiền chủ yếu được sử dụng tại Việt Nam. Đây là đồng tiền do Ngân hàng Đông Dương – bản chất là một công ty tư nhân ngoại quốc, do chính phủ Pháp bảo trợ và là con đẻ của bọn tài phiệt thống trị trong chính phủ Pháp – phát hành.

3 đồng tiền riêng biệt ở ba miền
Nhiệm vụ với Trung ương lúc này, là phát hành đồng tiền riêng nhằm khẳng định nền tài chính độc lập. Tuy nhiên, ngân khố Trung ương chỉ còn vẻn vẹn 1,23 triệu đồng Đông Dương, trong đó gần 600.000 đồng là tiền lẻ rách nát chờ tiêu huỷ.
Trong bối cảnh đặc biệt, nền độc lập “non trẻ” với ngân khố eo hẹp, tiền đồng ra đời mà không có bản vị (cơ sở neo đồng tiền, thường là theo vàng hoặc bạc).
Lúc này, thực dân Pháp cũng đang chiếm đóng ba tỉnh Bình – Trị – Thiên, làm quan hệ kinh tế giữa hai miền Bắc – Nam bị ngăn cách. Điều kiện thực tế của các khu vực trong nước có sự khác biệt, giá cả chênh lệch và thiếu ổn định. Chính phủ Kháng chiến Trung ương, đóng ở chiến khu Việt Bắc, do đó, quyết định thành lập ba khu vực tiền tệ riêng biệt, gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
Tại Trung ương (Bắc Bộ), sau khi có chủ trương phát hành đồng tiền riêng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch cho in và phát hành tờ Bạc Tài chính Việt Nam. Việc sản xuất được tiến hành khẩn trương và bí mật.
Bộ Tiền Tài chính đầu tiên ra đời là tiền kim loại gồm 20 xu, 1 hào, 1 đồng bằng nhôm và 2 đồng bằng đồng. Sau đó, trong tháng 10/1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời tập trung một số hoạ sĩ (Mai Văn Hến, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Lê Phả…) bắt đầu vẽ và in tờ giấy bạc Việt Nam.
Để đáp ứng nhu cầu phát hành ngày càng lớn, Bộ Tài chính mua lại toàn bộ Nhà in Tô Panh (Taupin) của một ông chủ người Pháp, đóng tại đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn ngày nay). Nhằm che mắt địch và bọn phản cách mạng, nhà in được mang tên Việt Nam Quốc gia Ấn thư cục.
Các loại giấy bạc mệnh giá 2 hào, 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng sau đó được in ấn và phát hành, đều in hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và có dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, cùng chữ ký của Bộ trưởng Tài chính.
Do phát hành nhiều đợt, tại nhiều địa điểm, nên các tờ tiền cùng mệnh giá nhưng có hình ảnh, kích thước khác nhau.

Cuối năm 1945, quan hệ giữa Việt Nam và Pháp ngày càng căng thẳng. Nhận thấy chiến tranh có thể xảy ra, chiến trường sẽ chia cắt, mọi việc liên lạc với Trung ương sẽ bế tắc, Chính phủ có chỉ thị, Bộ Tài chính uỷ nhiệm cho đồng chí Nguyễn Văn Tấn – Giám đốc Nha Tài chính Trung Bộ, đại diện Bộ trưởng Tài chính ở miền Trung chỉ đạo thành lập cơ quan Ấn loát đặc biệt ở Trung ương. Ông Tấn cũng được uỷ quyền ký một số loại Bạc Tài chính Việt Nam in ở Trung Bộ. Cơ sở bí mật in thử Bạc Tài chính được tổ chức ngay trong Nhà in Ngô Tử Hạ ở đường Hàng Bè, Huế.
Thu Đông năm 1947, quân Pháp mở rộng chiến tranh. Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh thường xuyên bị địch ném bom, bắn phá. Cơ quan Ấn loát Tài chính Trung Bộ ở gần đường số 8 từ Hà Tĩnh đi Napê (Lào) không an toàn, cấp trên quyết định cho di chuyển địa điểm vào rừng sâu. Cuối 1947, giữa mùa mưa rét đậm, toàn bộ nhân sự chở máy móc vật tư thiết bị xuôi dòng Ngàn Phố, qua ngã ba Linh Cảm, ngược dòng Ngàn Sâu, chiều dài sông nước trên 30 km với nhiều thác ghềnh và 5km đường rừng đầy sên, vắt mới đến địa điểm đặt nhà máy.
Tại khu vực Trung Bộ, do hoàn cảnh khó khăn, Chính phủ cũng cho phép chính quyền liên khu V (4 tỉnh thuộc vùng tự do Nam Trung Bộ gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên) in và lưu hành phát hành Tín phiếu Trung Bộ, với điều kiện có chữ ký của đồng chí Phạm Văn Đồng. Thời gian đầu, Tín phiếu Trung Bộ được lưu hành song song với Tiền Tài chính.
Sau đó, Tiền Tài chính tại khu vực xảy ra hiện tượng sụt giá nên từ 1952, Trung ương chỉ thị cho Liên khu V thu hồi giấy bạc tài chính, chỉ dùng tín phiếu để lưu hành và quản lý như giấy bạc để chống việc phá hoại tiền tệ của địch.

Trong khi đó, Nam Bộ là nơi cách xa Chính phủ Trung ương với núi rừng hiểm trở, giao thông liên lạc khó khăn, chi viện của Trung ương bị hạn chế. Cơ quan Ấn loát đặc biệt Nam Bộ chưa có điều kiện để tổ chức và phát hành tờ Bạc Tài chính như ở Trung ương (Bắc Bộ) và Trung Bộ. Chính quyền vì thế vẫn tạm dùng đồng bạc xanh do Pháp phát hành.
Việc dùng chung đồng bạc xanh (bạc Đông Dương) khiến chính quyền rơi vào thế bị động, gặp nhiều khó khăn. Vì thiếu bạc lẻ, có lúc, dân ta đã tự xé đôi tờ Đông Dương có mệnh giá nhỏ để tiêu dùng. Giá trị mỗi mảnh là phân nửa giá tấm giấy bạc nguyên.
Năm 1947, Chính phủ Trung ương cũng cho phép phát hành tại Nam Bộ tiền trung ương với nhiều mệnh giá khác nhau, cũng đều in hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một trong nhiều loại tiền bên cạnh tiền Đông Dương và tiền Tài chính lưu hành tại khu vực Nam Bộ.

Suốt giai đoạn từ 1945 đến 1950, lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba chế độ tiền tệ riêng với nhiều loại hình tiền khác nhau. Tờ Bạc Tài chính (phát hành ở Trung ương), tờ Tín phiếu Liên khu 5, tờ Bạc Nam Bộ đều nằm trong hệ thống tiền tệ nước ta.
Trên mỗi tờ bạc đều có hình ảnh Bác Hồ. Trên mỗi loại bạc còn có hình ảnh bộ đội, dân quân, chị du kích tay cầm cuốc, tay cầm súng, hình ảnh công nhân tay cầm búa, chị nông dân tay cầm bó lúa chín vàng. Trên một loại bạc khác, có ảnh vẽ hai phụ nữ với cuốn sách, anh bộ đội cầm súng, anh nông dân với quả bí tượng trưng diệt giặc đói, giặc dốt và ngoại xâm.
Ngoài có giá trị tiền tệ, các tờ tiền này mang nhiều ý nghĩa chính trị và tuyên truyền và Chính phủ.
Làm giả bạc Đông Dương
Năm 1950, tại khu vực Trung Bộ, một cơ sở Ấn loát đặc nhiệm ra đời với nhiệm vụ đặc biệt – làm giả bạc Đông Dương.
Làm bạc giả sao cho khó phân biệt đòi hỏi nhiều công đoạn phức tạp. Phải chọn loại giấy thích hợp, pha chế màu mực in thật đúng. Khuôn mẫu phải sắc xảo và đánh số rõ. In xong tờ bạc còn phải làm cho cũ đi, giống hẳn các tờ bạc đang lưu hành. Với sự mò mẫm và nhờ vào sử dụng tay nghề của ông Vũ Đức Dương và vợ Nguyễn Thị Tâm, hai can phạm làm bạc giả, được Công an Hà Tĩnh phóng thích, bạc giả Đông Dương được sản xuất thành công.
Bạc in xong được chuyển cho Ty Công an (nay là Sở Công an) các tỉnh, các liên khu và cả Nam Bộ để đưa vào tiêu thụ ở vùng địch kiểm soát. Các tờ bạc Đông Dương giả được đưa vào các sòng bạc ở vùng tề, giao cho cán bộ hoạt động trong lòng địch, mua hàng hoá từ vùng tạm chiếm chuyển ra vùng tự do, đổi lấy bạc Đông Dương thật cho kháng chiến và cấp phát cho anh em cán bộ địch hậu có điều kiện sống và hoạt động trong lòng địch.
Địch phát hiện, sau đó thay loại bạc Đông Dương khác tinh vi hơn. Cơ quan Ấn loát đặc nhiệm giải thể sau gần 3 năm, là một thành công lớn trong cuộc đấu tranh tiền tệ với Pháp khi chúng dùng tờ bạc Đông Dương để ngăn chặn, phá giá đồng Bạc Tài chính.
Về phía Pháp, chúng cũng cố tìm cách làm giảm giá trị và giảm sự tín nhiệm của nhân dân với tờ Bạc Cụ Hồ. Thực dân Pháp rêu rao Bạc Việt Nam không có giá trị, đồng thời ra sức khủng bố những người tiêu dùng Bạc Việt Nam trong vùng bị chiếm, chê bai bạc Việt Nam xấu, dễ rách nát.
Mặt khác, chúng cho làm bạc giả và tung vào những vùng có lưu hành tiền của ta. Tiền Nam Bộ do Nam Bộ phát hành nên dễ phân biệt, song Tiền trung ương khó phát hiện hơn nên tờ giấy bạc 100 đồng Trung ương phát hành sau này được dán “Phiếu kiểm soát” đóng dấu của Uỷ ban Kháng chiến Hành chính, rồi mới cho lưu hành. Nhân dân thường gọi loại tiền này là tiền đắp nền.
Việc quản lý kinh tế tài chính trong thời kỳ chiến tranh có nhiều mặt phức tạp, một số chủ trương và việc làm chưa thích hợp, chẳng hạn một số địa phương chủ trương bao vây, phong tỏa kinh tế địch, tẩy chay hàng hóa địch, đánh thuế xuất nhập khẩu nặng nề.
Phía ta đã không xem xét hoàn cảnh chiến tranh cài răng lược giữa ta và địch, kinh tế giữa vùng ta và vùng địch kiểm soát cần có mối giao lưu, nên đã làm cho nhân dân vùng địch không bán được hàng hóa nông sản ra vùng địch kiểm soát, không mua được hàng công nghệ phẩm từ vùng địch kiểm soát, gây cho ta nhiều khó khăn về quản lý thị trường, giá cả và tiền tệ làm nhân dân bất bình.
Trước tình hình đó, ta đã thành lập Ban Kinh tài Nam Bộ trực thuộc Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đề ra các biện pháp quản lý kinh tế tài chính, đẩy mạnh sản xuất lưu thông hàng hóa, khôi phục lại việc giao lưu hàng hóa giữa vùng căn cứ Cách mạng và vùng địch có lợi cho ta. Nhờ vậy, nông dân sản xuất và bán được hàng nông sản dư thừa, mua được các hàng công nghệ phẩm thiết yếu chỉ có ở vùng địch.
Việc này nhanh chóng ổn định và nâng cao giá trị tiền tệ, đấu tranh tỷ giá thắng lợi so với tiền địch. Ta đã mở chiến dịch tấn công tờ bạc Đông Dương, đẩy lùi đồng bạc khỏi vùng giải phóng, mở rộng lưu thông tiền tệ của ta ra vùng tranh chấp, vùng ven; đẩy mạnh các mặt sản xuất, lưu thông và cải thiện từng bước đời sống nhân dân, bà con lại phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng.
Ngày 5/6/1951, Chính phủ ra Sắc lệnh thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, thay giấy Bạc Tài chính bằng Bạc Ngân hàng nhằm phục vụ đắc lực cho sản xuất, lưu thông phân phối, ổn định giá cả và đời sống nhân dân.
Ở miền Bắc, tiền Tài chính chuyển đổi cho nhân dân bằng tiền Ngân hàng với tỷ lệ 1 đồng Ngân hàng ăn 10 đồng bạc Tài chính. Việc này được tiến hành trong khi chiến tranh còn chưa kết thúc. Đây là một cuộc cải cách tiền tệ đầu tiên của nước ta.
Từ chế độ phát hành nhằm mục đích giải quyết chi tiêu của ngân sách Nhà nước chuyển sang phát hành nhằm phục vụ phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa là chính. Như vậy, chế độ tiền tệ quốc khố do Bộ Tài chính phụ trách chuyển dần sang chế độ tiền tệ tín dụng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phụ trách.

Ở Liên khu 5, Ngân hàng Nhà nước đã được thành lập vào năm 1952. Do điều kiện đặc biệt ở Nam Bộ, Bạc Ngân hàng ở Nam Bộ được thành lập vào tháng 7/1955, chịu sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Trung ương về chủ trương đường lối, còn công tác nghiệp vụ cụ thể thì Nam Bộ được rộng quyền thực hiện cho sát với tình hình của địa phương.
Nam Bộ vẫn tiếp tục in và phát hành tiền Nam Bộ, tiếp tục đấu tranh tiền tệ với địch và xây dựng phương án tổ chức các hoạt động nghiệp vụ tín dụng, tiền tệ đến tháng 7/1954. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Nam Bộ còn phải thu hồi các loại tiền tệ mà ta đã phát hành (như ở Liên khu 5 thu hồi Tín phiếu, các tỉnh Nam Bộ thu hồi giấy bạc Nam Bộ; các loại Bạc Tài chính Việt Nam cũng được thu hồi để đổi tiền Đông Dương cho nhân dân).
Nhìn chung, việc in và phát hành giấy Bạc Việt Nam, Bạc Nam Bộ, Tín phiếu Liên khu 5 đều nằm trong hệ thống Bạc Tài chính Việt Nam, cùng tham gia cuộc đấu tranh tiền tệ với địch và diễn ra trên khắp cả nước.
Nhờ in và phát hành đồng tiền Việt Nam, chúng ta có điều kiện thoát dần khỏi chính sách lũng đoạn kinh tế của thực dân Pháp, xây dựng nền tài chính tiền tệ từ non trẻ đến trưởng thành, từ lạc hậu đến văn minh tiên tiến.
Quỳnh Trang
Tư liệu:
*Đồng Bạc Tài chính, Đồng Bạc Cụ Hồ (Bộ Tài chính)
*Lịch sử Đồng tiền Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước)