‘Khoán 10’ của doanh nghiệp nhà nước, tư nhân

Thời điểm đó, VFC là doanh nghiệp nhà nước, có tên Công ty Khử trùng II-TP HCM, thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là
Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Họ được “chọn mặt gửi vàng”, là một trong những công ty đầu tiên của ngành nông nghiệp cổ phần hóa.

“Khi nhận chỉ đạo, chúng tôi mừng vì đây là cơ hội thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, kinh tế kế hoạch, vốn không tạo động lực phát triển,
nhưng lo bởi chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện thời bấy giờ”, ông nói.

Ông Cứ có gần nửa thế kỷ gắn bó với đơn vị duy nhất, từ chàng thanh niên được phân công làm cán bộ kỹ thuật Đội Sát trùng thuộc Cục Bảo vệ
thực vật, kinh qua nhiều vai trò quản lý tại Công ty Khử trùng II-TP HCM, trước khi trở thành Chủ tịch VFC. Với ông, cổ phần hóa là cột mốc trở
mình quan trọng của doanh nghiệp, giúp đội từ vài chục nhân sự trở thành công ty kỹ thuật nông nghiệp 1.500 người, doanh số mỗi năm khoảng 4.000 tỷ
đồng.

Cổ phần hóa là ví dụ của tinh thần “Khoán 10”, vốn xuất phát từ ngành nông nghiệp, lan tỏa trong tư duy đổi mới mọi mặt nền kinh tế suốt 80
năm qua.

“Tinh thần Khoán 10 là phát huy sức mạnh của toàn dân và phục vụ trực tiếp cho dân”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp, Viện
Thương mại và Kinh tế quốc tế (Đại học Kinh tế Quốc dân) nhận định.

“Lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu”

Trước 1986, những đơn vị như Công ty VFC “gánh” gần như toàn bộ sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Cơ cấu nền kinh tế khi ấy gồm xí
nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, chỉ một phần rất nhỏ kinh tế cá thể. Với chế độ tập trung bao cấp, cả hai khu vực đều không có quyền tự chủ, từ
đầu vào (lao động, vốn, nguyên vật liệu) đến sản xuất và đầu ra (giá cả, phân phối).

Hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch nên họ không bận tâm nâng cao năng suất hay cạnh tranh. “Thời đó lương thưởng không cao, phúc lợi cũng bình
thường. Nó làm cho người ta sống không có động lực mạnh mẽ như bây giờ”, ông Cứ nhớ lại.

Ông Trương Công Cứ – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Khử trùng Việt Nam (VFC), tháng 8/2025. Ảnh: Thanh Tùng

GS.TS Ngô Thắng Lợi, Đại học Kinh tế Quốc dân chỉ ra các xí nghiệp thời đó không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc
trách nhiệm, bởi “lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu”. “Cách này gần như làm tê liệt cạnh tranh, kìm hãm đổi mới và triệt tiêu động lực phát triển
doanh nghiệp”, ông nhận định.

Kết quả, tỷ lệ huy động công suất máy móc thiết bị thấp hơn 60%, mức tích lũy trên 1 đồng tài sản cố định chỉ đạt 0,25 đồng. Hệ số tích lũy
cũng rất thấp, khi 100 đồng vốn làm ra chỉ giữ lại được 0,33 đồng cho tái đầu tư, sản xuất.

Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội là một ví dụ được cố GS Đặng Phong nhắc đến trong quyển “Phá rào trong kinh tế trước Đổi mới”. Giai đoạn 1976-1979,
nhà máy rơi vào khủng hoảng: vật tư cạn kiệt, sản xuất sa sút, phụ thuộc vào cấp phát từ Liên hiệp Xí nghiệp, Bộ Công nghiệp nhẹ và Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước.

Ngành thủy sản, dù được ưu ái về vốn và thiết bị, lại rơi vào khủng hoảng vì cơ chế bao cấp. Chuỗi liên kết truyền thống bị phá vỡ, dẫn đến sản lượng và xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng. Năm 1980, ngành chỉ đạt 400.000 tấn cá khai thác và hơn 11 triệu USD xuất khẩu, tương đương một phần ba chỉ tiêu. Cùng thời kỳ, hàng loạt nhà máy phía Nam lâm cảnh thiếu điện, nguyên liệu, phụ tùng và buộc phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng.

Với nền kinh tế, theo dữ liệu của Bộ Công Thương, giai đoạn 1976-1985 tăng trưởng ở mức thấp và thực chất là không phát triển. Thập niên này
không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn.

Năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 25 và 26, cấp một số quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho xí nghiệp quốc
doanh. Họ được tự cân đối một phần tài chính và vật tư, hưởng lợi nhuận sau khi hoàn thành nghĩa vụ ngân sách, giúp mở rộng lương – thưởng và
tăng động lực làm việc cho lao động.

Tuy nhiên, biện pháp này chưa đủ. Hậu quả cuộc cải cách Giá – Lương – Tiền năm 1985 đẩy tình thế tới chỗ không thể tiếp tục chắp vá mô hình
cũ, cần đổi mới toàn diện kinh tế.

Vai trò, quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước được khẳng định khi Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (1986) xác định khu vực này là chủ đạo, chi
phối các thành phần kinh tế khác. PGS.TS Nguyễn Thường Lạng lý giải hình thức này có thể hiểu là bên cạnh kế hoạch Nhà nước giao, doanh nghiệp
được tự lập phương án sản xuất kinh doanh để tận dụng cơ sở vật chất, năng lực nhằm cải thiện đời sống công nhân và tăng quỹ phúc lợi.

“Những thay đổi này không đáng kể. Nguồn lực bị kìm hãm, doanh nghiệp vẫn trong ‘vòng kim cô’ cơ chế kế hoạch hóa”, ông nhận xét.

Bước ngoặt cổ phần hóa và sức ép đổi mới

Từ 1986 – năm đầu Đổi mới, doanh nghiệp nhà nước tăng vọt và đạt 12.297 vào 1990, gấp hai lần so với 4 năm trước đó. Tuy nhiên, trình độ
quản trị và hiệu quả hoạt động vẫn thấp. Kinh tế nhà nước hưởng nguồn lực ưu đãi lớn, chiếm 89,5% tổng tín dụng cả nước, nhưng đóng
góp của họ vào GDP đi xuống, từ gần 43% GDP vào 1986 giảm về 38% năm 1990.

“Hơn 12.000 doanh nghiệp nhà nước đặt ra vấn đề lớn về sở hữu. Con đường duy nhất khi ấy là cổ phần hóa”, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhận
định.

Trong bối cảnh này, Hội đồng Bộ trưởng đưa ra Quyết định 143, với giải pháp cốt lõi đổi mới kinh tế nhà nước – cổ phần hóa, bắt đầu từ 1992.
Khi đó, người lao động và các thành phần khác tham gia vào khu vực quốc doanh với tư cách là chủ thể có cổ phần.

Công nhân làm việc tại Nhà máy của VFC tại Đức Hòa, Tây Ninh (Long An cũ). Ảnh: VFC

Doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn, như VFC nơi ông Trương Công Cứ làm việc, được chọn thí điểm cổ phần hóa. Họ ưu tiên thực hiện trước với mảng kinh doanh nông dược. Sau hai năm, VFC chính thức trở thành công ty cổ phần, với vốn điều lệ ban đầu 21 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm 51% và thoái vốn hoàn toàn sau đó. Ngày nay, VFC phát triển với vốn điều lệ lên tới 400 tỷ đồng.

Cùng giai đoạn, các doanh nghiệp “lột xác” thành công còn có Liên Hiệp Vận tải, Giấy Hiệp An, Công ty chế biến thức ăn gia cầm, Công ty cơ
điện lạnh… nhưng số lượng đếm trên đầu ngón tay.

“Chính phủ không hài lòng với kết quả này”, theo cuốn “Kinh tế Việt Nam – Thăng trầm và Đột phá của tác giả Phạm Minh Chính và Vương
Quân Hoàng”. Vì thế, tới đầu những năm 2000, diện thí điểm cổ phần hoá được mở rộng, tăng vọt lên 583.

Song song, Hội nghị Trung ương lần III khoá IX đề ra kế hoạch toàn diện hơn về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thêm cách thức xử lý với khu vực
này như giải thể, sáp nhập, bán, cho thuê. Nhờ vậy, số doanh nghiệp giảm hơn một nửa, còn trên 5.700 vào cuối năm 2000.

Hai thập niên tiếp theo, khoảng 4.000 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Tính đến 2022, Nhà nước thoái bớt vốn tại 4.651 đơn vị,
với 1,78 triệu tỷ đồng, trong đó giá trị phần vốn nhà nước gần 563.400 tỷ.

Lợi ích rõ rệt cho từng doanh nghiệp và nền kinh tế. Tại VFC, cổ phần hóa mang lại cơ chế linh hoạt, tạo động lực cho ban điều hành và người lao động, theo Chủ tịch Trương Công Cứ. Sau quá trình này, công ty tiếp tục tái cấu trúc, tinh gọn đội ngũ. “Doanh số tăng trưởng liên tục, trung bình 15-20% mỗi năm, đặc biệt tăng gấp rưỡi trong 2022-2023”, ông chia sẻ.

Nhiều tên tuổi lớn cũng minh chứng khả năng bứt phá, duy trì vị thế “đầu tàu” kinh tế sau khi Nhà nước thoái bớt vốn, như Vinamilk, Vinaseed, Trapaco, Colusa-Miliket… Với nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước từ được ưu ái, chiếm gần 90% tổng tín dụng cả nước vào đầu những năm 1990 đã giảm hơn một nửa vào 10 năm sau đó, giúp phân bổ nguồn lực đến các khu vực khác.

“Đó là cách tiếp cận lâu dài, bao trùm và phù hợp với nguyên tắc vận hành thị trường”, ông Nguyễn Thường Lạng nhận xét.

Tuy nhiên, mặt yếu cũng không ít. Hiệu quả sử dụng vốn, tính theo chỉ số ICOR của khu vực này kém hơn đáng kể so với FDI và tư nhân. Tính đến cuối 2023, 134 đơn vị lỗ lũy kế 115.270 tỷ đồng (4,6 tỷ USD), gấp 1,7 lần so với một năm trước đó.

Thực trạng này do nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Ngoài năng lực quản trị, theo các chuyên gia, áp lực của kinh tế nhà nước là ngoài hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, họ cũng phải tuân thủ các luật về quản lý vốn đầu tư, đầu tư công.

“Doanh nghiệp nhà nước không năng động nhiều vì họ bị ‘gánh’ trên vai rất nhiều quy định quản lý”, TS Trần Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH MTV Phát triển công nghiệp Tân Thuận nêu tại một tọa đàm vào tháng 6.

Ông ví dụ đất đai do khu vực nhà nước quản lý không được phép kinh doanh hoặc cho thuê nếu không đúng ngành nghề. Muốn đưa đất vào đầu tư, họ phải tuân theo quy định về đấu thầu, đấu giá.

Trong khi đó, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn gần đây chậm lại vì vướng nhiều quy định chồng chéo. Chỉ 5 doanh nghiệp cổ phần hóa, 63 đơn vị (đạt gần 44,7% kế hoạch) thoái vốn.

Tính đến cuối 2023, cả nước còn 671 doanh nghiệp nhà nước, với 473 công ty do Nhà nước giữ 100% vốn và 198 đơn vị có trên 50% vốn. Cùng với đó, 142 công ty có cổ phần, vốn góp của Nhà nước.

Theo TS Phạm Thế Anh tại Đại học Kinh tế Quốc Dân, duy trì quá nhiều doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả gây lãng phí nguồn lực quốc gia. “Đã đến lúc Nhà nước cần mạnh dạn thoái vốn tại các nơi này, nhất là lĩnh vực, ngành không phải trọng tâm chiến lược”, ông nói.

TS Trần Anh Tuấn đồng ý khu vực nhà nước nên nhận những lĩnh vực thất bại với kinh tế thị trường (về công ích, phúc lợi) hay các dự án hạ tầng (giao thông, kỹ thuật số) cần nguồn lực lớn, thu hồi vốn dài hạn mà tư nhân khó tham gia.

“Doanh nghiệp nhà nước đầu tư hạ tầng tốt, kinh tế tư nhân sẽ phát triển và thu hút FDI”, ông Tuấn phân tích.

Khát vọng ‘chaebol Việt’

Tháng 5, Hòa Phát công bố kế hoạch xây dựng nhà máy sản xuất thép ray 14.000 tỷ đồng, dự kiến có sản phẩm đầu tiên vào 2027. CEO Nguyễn Việt
Thắng coi đây là quyết định táo bạo, khi họ chưa dự báo được doanh thu, lợi nhuận – các chỉ tiêu tài chính vốn phải cẩn trọng cân nhắc trước khi
thực hiện bất kỳ dự án nào.

Điều thôi thúc hãng thép lớn nhất Việt Nam đầu tư là thông điệp xuyên suốt từ các lãnh đạo cấp cao về phát triển ngành
công nghiệp đường sắt, khuyến khích tư nhân tham gia. “Tôi tin với thông điệp này, Chính phủ sẽ đặt hàng doanh nghiệp thực hiện các dự
án”, ông nói.

Công nhân làm việc tại nhà máy Thép Hòa phát Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi, tháng 8/2024. Ảnh: Giang Huy

Niềm tin này không chỉ riêng Hòa Phát. Sau hội nghị hồi tháng 2, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị doanh nghiệp tư nhân “xem có thể làm được
gì thì đăng ký”, nhiều tập đoàn như Thaco, Vingroup cũng muốn tham gia các dự án quốc gia.

Nghị định 68 được Bộ Chính trị ban hành vào đầu tháng 5, khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế” đã củng
cố thêm vị thế và vai trò của khu vực này. Việt Nam đặt mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp và 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

CEO Nguyễn Văn Thắng gọi đây là bước tiến về nhận thức chính sách, đặt đúng vị trí động lực của tư nhân trong
nền kinh tế. “Từ trước đến nay, tư nhân luôn đóng góp lớn nhất về GDP, nhưng chỉ gần đây mới được thừa nhận đúng vai trò”, ông nói.

Hòa Phát thành lập vào 1992, chỉ 6 năm sau khi kinh tế tư nhân lần đầu được công nhận. Các chính sách đổi mới như Luật Công
ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân sửa đổi 1994 đã tạo động lực ban đầu. Nhờ đó, 5 năm đầu, tổng sản lượng cả nước tăng
trên 40%, trong đó khu vực tư góp hơn 53%, vượt xa kinh tế nhà nước.

Giai đoạn 1990-2000, số doanh nghiệp tăng hơn 100 lần, chủ yếu là tư nhân. Dù vậy, theo PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát
triển chính sách Đại học Quốc gia TP HCM (thuộc Trường Đại học Kinh tế – Luật), các doanh nghiệp thời kỳ này vẫn hoạt động theo kiểu thăm dò, do chính sách quản lý siết
chặt.

Bước đột phá thực sự từ Luật Doanh nghiệp 1999, chuyển đổi tư duy “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, giảm chi phí và thời gian thành lập doanh
nghiệp. Nhờ đó, giai đoạn 2000-2005, số doanh nghiệp mới tăng 3,57 lần. Họ cũng được mở rộng quyền tự do kinh doanh, bình đẳng nhờ các
Luật Doanh nghiệp, Đầu tư 2005.

Sau gần 40 năm, khu vực tư nhân có hơn 940.000 doanh nghiệp và 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP và 82% lao động. Tuy nhiên, PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình cho rằng ngoài tư duy phát triển ngắn
hạn, nhỏ lẻ, khu vực tư vẫn gặp khó trong tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt là vốn. Hiện chỉ 40% doanh nghiệp tư tiếp cận
được vốn vay ngân hàng, chủ yếu do hạn chế về minh bạch tài chính, tài sản thế chấp.

Thách thức lớn nhất là rào cản cơ chế. “Bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực giữa khu vực doanh nghiệp tư nhân với nhà nước và FDI còn phổ biến”,
ông Tình nhận định.

Chứng kiến kinh tế tư nhân chuyển mình sau 4 thập niên, PGS. TS Lê Xuân Bá – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương – nhấn mạnh khu vực này cần mang tinh thần “dám làm những việc trước đây chưa từng làm” kiểu “Khoán 10”.

“Đã đến lúc đừng ngại tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực tham gia vào lĩnh vực tầm chiến lược”, ông nói.

Đặt kỳ vọng vào dự án 14.000 tỷ, CEO Hòa Phát Nguyễn Việt Thắng nói doanh nghiệp không mong được “xin – cho”, mà cần chính sách đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, đầu ra ổn định và tầm nhìn dài hạn.

Ông Thắng chia sẻ suốt nhiều thập kỷ, doanh nghiệp tư nhân “đều tự bơi và có người bơi được”. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nội lực, sẽ rất khó để Việt Nam có nhiều doanh nghiệp tầm cỡ khu vực, châu lục. Theo ông, các doanh nghiệp cần 3 yếu tố: hệ thống hành chính thông thoáng, nhất quán; ổn định kinh tế vĩ mô (tỷ giá, lãi suất) và thay đổi tư duy “để tư nhân tự lớn”.

“Muốn có ‘chaebol Việt Nam’, không thể chỉ hô khẩu hiệu. Nhà nước và doanh nghiệp phải hành động, đồng hành thật sự”, ông Thắng nói.

Viễn Thông – Phương Dung
Đồ họa: Phương Đông – Tâm Thảo