
Công nhân trong Khu công nghệ cao TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH
“TP.HCM hoàn toàn có thể trở thành cả trung tâm công nghiệp lẫn dịch vụ. Trên thực tế, khả năng kép đó đã và đang trong quá trình được thực hiện. Đây là một trong những khía cạnh thú vị nhất của TP.HCM ngày nay” – ông Guillaume Rondan, nhà sáng lập kiêm giám đốc Move To Asia, chia sẻ.
Lợi thế kép mở ra cơ hội
Ông Guillaume đến Việt Nam gần 10 năm trước, khi làm việc trong lĩnh vực thương mại điện tử và nhận ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này thúc đẩy ông thành lập Move To Asia, nhằm hướng dẫn các doanh nhân mở rộng sản xuất và tìm nguồn cung ứng tại Việt Nam.
Hiện nay, Move To Asia phục vụ khách hàng từ hơn 20 quốc gia. Trong số các lựa chọn tại Việt Nam, TP.HCM vẫn là điểm đến cho hơn 80% khách hàng nhờ môi trường kinh doanh minh bạch, lối sống hiện đại và gần các trung tâm sản xuất chính.
Theo ông Guillaume, TP.HCM vừa là trung tâm công nghiệp với các cụm sản xuất và cảng lớn, vừa vươn lên như một trung tâm dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ tài chính, thương mại điện tử, tiếp thị và các ngành công nghiệp sáng tạo. Hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp có cộng đồng start-up, không gian làm việc chung, vườn ươm… đang phát triển, giúp hành trình từ ý tưởng tới thị trường thuận lợi hơn.
Điều thú vị nhất mà ông Guillaume thường chia sẻ với khách hàng, là rất ít thành phố ở Đông Nam Á cho phép nhà đầu tư vừa thuê những nhà thiết kế, kỹ sư, chuyên gia tư vấn tài năng, vừa ở gần các vùng sản xuất để đưa ý tưởng của mình thành hiện thực.
“Tôi thường nói với họ rằng bằng cách sản xuất tại khu vực miền Nam Việt Nam, họ được hưởng một lợi thế độc đáo: khả năng thiết kế một mặt hàng mới, tiếp thị nó, sản xuất nó và xuất khẩu đi khắp thế giới. Tất cả chỉ trong vòng vài km” – ông Guillaume chia sẻ.
Từ góc nhìn đại diện cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc, ông Kim Nyoun Ho, chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KOCHAM), cho rằng TP.HCM đã hội tụ đầy đủ tiềm năng để trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp, tài chính và dịch vụ logistics. Những yếu tố này mở ra cơ hội để thành phố vươn lên thành siêu đô thị tiêu biểu của Đông Nam Á.
Trong khi đó, ông Andrew Goledzinowski, cựu đại sứ Úc tại Việt Nam, hiện là chuyên gia tư vấn chiến lược, đánh giá TP.HCM hiện là một trong những thành phố thú vị và sôi động nhất để sinh sống. “Tôi luôn nói rằng Việt Nam là đất nước của tương lai và tương lai đó đang đến gần hơn bao giờ hết” – ông Andrew nói.
Bài toán hạ tầng và thách thức đô thị hóa
Dù sở hữu nhiều lợi thế, TP.HCM vẫn đối mặt với các bài toán lớn để trở thành thành phố thông minh, công nghệ cao và trung tâm tài chính khu vực. Các chuyên gia đồng thuận rằng cải thiện hạ tầng và nâng cao năng suất lao động là chìa khóa then chốt.
Cụ thể, ông Kim Nyoun Ho chỉ ra một số “điểm nghẽn” then chốt. Đầu tiên là thiếu hụt hạ tầng “do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra quá nhanh”, hạn chế của hệ thống giao thông công cộng và thiếu ổn định trong cung cấp điện – nước.
Kế đến là thiếu hụt lao động có tay nghề, kéo theo áp lực gia tăng chi phí nhân công, đặc biệt trong việc thu hút nhân lực cho các ngành công nghệ cao. Đồng thời, theo KOCHAM, TP.HCM cần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của thủ tục hành chính, trong đó có việc khắc phục tình trạng chậm trễ trong cấp phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cuối cùng, những thách thức môi trường như xử lý rác thải, ô nhiễm không khí và các hệ lụy khác từ đô thị hóa, đòi hỏi giải pháp bền vững và mang tính phòng ngừa ngay từ đầu.
Bên cạnh đó, theo ông Bruno Jaspaert, chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), TP.HCM có cơ hội trở thành một trong những nền kinh tế đô thị cạnh tranh nhất Đông Nam Á nhưng quá tải hạ tầng là vấn đề cấp bách nhất, khi cả đường bộ và cảng biển đang chịu áp lực này. Cùng với đó, kết nối giữa các nhà máy, kho bãi và cảng vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả logistics tổng thể.
“Việc thành phố tiếp tục đầu tư vào giao thông đô thị, quản trị số và mở rộng công nghiệp là rất đáng khích lệ, nhưng trọng tâm hiện nay phải là tốc độ và sự phối hợp. Nếu các quan hệ đối tác công – tư được tận dụng hiệu quả và cải cách các quy định theo kịp tham vọng kinh tế, TP.HCM thực sự có thể sánh ngang với Bangkok, Kuala Lumpur và Singapore như một trung tâm kinh tế của khu vực trong thập kỷ tới”, ông Bruno Jaspaert nhận định.
Còn ông Andew Goledzinowski thì cho rằng bên cạnh sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng và logistics, vấn đề ngập lụt và chất lượng không khí là những vấn đề TP.HCM cần xử lý nếu muốn thu hút các lãnh đạo doanh nghiệp đẳng cấp thế giới và gia đình của họ đến sinh sống và làm việc.
Nên học bài học của Bangkok thế nào?

Xuất nhập khẩu hàng hóa tại cảng Cát Lái, TP.HCM – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Ông Jonathan Pincus, giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM), giải thích rằng bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi tăng trưởng kinh tế chậm lại do tiền lương tăng và các quốc gia mất khả năng cạnh tranh trong sản xuất chi phí thấp, nhưng chưa đủ năng lực công nghệ và quản lý để tham gia các ngành có giá trị gia tăng cao hơn.
Thái Lan là một trường hợp kinh điển “bị bẫy”. Tăng trưởng của quốc gia này phụ thuộc nhiều vào việc chuyển lao động từ nông nghiệp sang sản xuất thâm dụng lao động và chuyên môn hóa vào một số ngành công nghiệp nhất định như ổ đĩa cứng, lắp ráp ô tô. Nhưng quá trình này đã kết thúc khi tiền lương tăng, dẫn đến xuất khẩu của Thái Lan giảm và các ngành công nghiệp mới không xuất hiện.
Ông Jonathan Pincus nói bài học quan trọng cho Việt Nam là đa dạng sản phẩm xuất khẩu thay vì tập trung vào một vài sản phẩm và tăng trưởng năng suất phải theo kịp mức tăng lương.
“Nhà ở giá cả phải chăng và mức lương thực ổn định là rất quan trọng. Ngành sản xuất thâm dụng lao động vẫn rất quan trọng với Việt Nam và chi phí lao động ở Việt Nam vẫn thấp so với nhiều nước trong khu vực và Trung Quốc, mang lại lợi thế cạnh tranh trong một thời gian nữa”, ông Jonathan Pincus chia sẻ.
Đồng quan điểm, ông Kim Nyoun Ho nhấn mạnh không thể xem nhẹ vai trò những ngành thâm dụng lao động đã thu hút lượng vốn đầu tư lớn tại Việt Nam, nó bảo đảm sinh kế cho hàng triệu lao động. Việt Nam cần cách tiếp cận cân bằng, vừa duy trì hoạt động ổn định của các ngành sản xuất hiện hữu, vừa thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển bền vững.
“Việt Nam sở hữu tiềm năng tăng trưởng lớn và có sức hấp dẫn với đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhận diện và giải quyết các “điểm nghẽn” về hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, thủ tục hành chính và môi trường, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế như TP.HCM” – ông Kim nói.
Ông Guillaume Rondan: Tương lai của TP.HCM: một “thành phố mở”

Đó là mở rộng kết nối, mở với cảnh quan và mở ra các cơ hội. Nếu chấp nhận sự cởi mở ở ba khía cạnh này, TP có thể vượt ra ngoài vai trò chỉ là một cường quốc sản xuất.
Nghĩa là TP.HCM sẽ trở thành một nơi những ý tưởng được khai sinh, nơi mọi người muốn sống và làm việc; và nơi các doanh nghiệp nhìn thấy cơ hội dài hạn.
Chương tiếp theo của TP.HCM là về đổi mới và tạo ra tri thức. Để đạt được điều này, quy hoạch sử dụng đất cần đủ linh hoạt để cho phép các ngành công nghiệp và ý tưởng mới hình thành; từ sản xuất công nghệ cao đến các khu vực sáng tạo và các trung tâm công nghệ thông tin.
Điều quan trọng là xây dựng một hệ sinh thái nơi tài năng địa phương, doanh nhân toàn cầu và các tổ chức nghiên cứu có thể tương tác và cùng nhau tạo ra giá trị.