Từ nghèo đói đến cường quốc lương thực


Đầu năm 1945, chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp, ép người dân nhổ lúa trồng đay.
Thái Bình – vựa lúa của miền Bắc, quê hương ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch ThaiBinh Seed – cũng không thoát khỏi vòng xoáy này.

“Quê lúa mà dân phải nhổ lúa trồng đay”, ông Trần Mạnh Báo , Chủ tịch ThaiBinh Seed nhớ lại.

Cùng với thiên tai mất mùa, vỡ đê ở đồng bằng Bắc Bộ, hàng triệu trong số 20 triệu dân Việt Nam bị đẩy vào cảnh chết đói. Thái Bình cũng là
vùng tang thương nhất, với 280.000 người chết, tương đương một phần tư dân số tỉnh khi đó. Gia đình bên ngoại ông Báo mất 4 người chỉ trong một
tuần, bác họ cùng con trai phải chung quan tài vì không còn đất chôn.

Tháng 3/1945, phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân bắt đầu và lan rộng, vận chuyển lúa gạo khơi thông từ Nam ra Bắc, đê điều
được củng cố và tổ chức lại sản xuất. Nhưng chưa đầy một thập kỷ sau, sai lầm trong cải cách ruộng đất khiến khoảng nửa triệu người đói ăn năm
1954. Lần đầu tiên, Việt Nam phải nhận 10.000 tấn gạo viện trợ từ Trung Quốc.

Lực lượng Việt Minh hỗ trợ phá kho thóc Nhật. Ảnh: Tư liệu

Năm 1956, Hội đồng Chính phủ ban hành nghị quyết sửa chữa sai lầm về cải cách ruộng đất, trả tự do, quyền công dân, sửa lại thành phần giai
cấp và đền bù tài sản cho người bị oan. Công tác sửa sai được thực hiện song hành cùng đẩy mạnh sản xuất, giúp nền kinh tế dần phục hồi. Năng
suất lúa miền Bắc giai đoạn 1957-1958 đứng đầu Đông Nam Á, nhưng sau đó lại tụt dốc vì mô hình hợp tác hóa.

Trong cơ chế hợp tác, kinh tế tập thể được tuyệt đối hóa, kinh tế tư nhân bị phủ định. Phong trào thi đua lan rộng với những khẩu hiệu như “Cờ
ba nhất” trong quân đội, “Sóng Duyên Hải” ở công nghiệp, hay nông nghiệp là “Gió Đại Phong”. Sau khi đất nước thống nhất, mô hình hợp tác xã mở
rộng toàn quốc, từ 55 đơn vị năm 1955 lên 73.500 vào 1986, nhưng kinh tế đi lùi.

Văn kiện Trung ương khóa IV mô tả 1980 – thời điểm kết thúc kế hoạch 5 năm (1976-1980) là thời kỳ “kinh tế và đời sống khó khăn gay gắt”. Sản
lượng lương thực chỉ đạt 13,7 triệu tấn, hụt 1,3 triệu tấn so với kế hoạch. Đàn heo tập thể giảm 16%, sản lượng cá biển cũng sụt 12.000 tấn. Để
đảm bảo đủ lương thực cho dân, Nhà nước huy động 5,8 triệu tấn gạo, nhưng phải nhập về lượng gần tương đương (5,62 triệu tấn) và xuất kho dự trữ
38.000 tấn. Trong 5 năm, hơn một triệu người thất nghiệp.

Tới trước 1986 – thời điểm Đổi mới – số lượng hợp tác xã tăng lên 1.336 lần trong 30 năm, nhưng cơ chế vận hành bộc lộ
nhiều bất cập. Công được tính theo giờ làm, không theo hiệu suất, trong khi tài sản của tập thể thì “cha chung không ai khóc”. Người nuôi heo
khéo hay bỏ mặc, trồng lúa năng suất cao hay thấp… đều được chấm ngang nhau, dẫn đến tình trạng “rong công, phóng điểm”, tạo ra lớp “cường hào
mới” trong làng. Nông dân dần mất động lực sản xuất trên chính mảnh ruộng của mình.

“Thời điểm ấy, Việt Nam vừa đứng bên bờ vực thẳm, vừa ở tầm cao khát vọng”, TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược
phát triển nông thôn, nhận xét.

Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch HĐQT ThaiBinh Seed, tại Viện nghiên cứu cây trồng của doanh nghiệp, năm 2018. Ảnh: ThaiBinh
Seed

Trong bối cảnh đó, đã có những cá nhân dũng cảm tìm cách “phá rào”. Khoảng 1966-1967, ông Kim Ngọc – cố Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, tiên phong
khoán hộ. Với khoán hộ, ruộng được giao cho nông dân để họ tự chủ sản xuất, thay vì làm việc theo tiếng kẻng của hợp tác xã. Họ cũng được giữ
lại phần vượt khoán sau thu hoạch.

Tuy nhiên, chính sách này bị cho là đi ngược chủ trương hợp tác hóa của trung ương, đưa nông nghiệp về con đường “tư hữu”, nên bị buộc dừng
vào 1968. Ông Kim Ngọc phải tự kiểm điểm.

Vĩnh Phúc không phải nơi duy nhất trong cảnh bế tắc, nông dân “làm mãi không đủ ăn”. Cách hơn 160 km, ở Thái Bình, hai thập kỷ sau, ông Trần
Mạnh Báo – khi đó là Phó trưởng trại giống lúa Đông Cơ (tiền thân của ThaiBinh Seed) – chứng kiến cảnh 56 ha đất của trại chỉ thu chưa tới 60 tấn
thóc. Tức là, năng suất mỗi ha lúa chỉ cho hơn 1 tấn thóc mỗi ha, trong khi nơi đây từng nổi tiếng là “quê hương 5 tấn”.

“Cứ một bao phân đạm tính một công, chở 4 bao đổ ở trạm bơm cũng tính 4 công, không ra ruộng sao lúa tốt?”, ông Báo nhớ lại.

Nỗi trăn trở “chỉ khi người lao động được hưởng thụ giá trị từ thành quả của họ, năng suất mới tăng”, đã thôi thúc ông nghiên cứu một quy trình sản xuất lúa mới. Ba năm miệt mài nghiên cứu, cuối 1987, ông Báo trình lãnh đạo tỉnh đề án “Khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động”, cũng với cách thức giao ruộng cho
dân. Tương tự chính sách “khoán hộ” của ông Kim Ngọc, nhiều người lo ngại ông Báo sẽ bị kỷ luật, nhưng ông quyết làm tới cùng.

“Có người bảo tôi không cẩn thận sẽ bị vào tù, nhưng là người lính trở về từ chiến trường, tài sản của tôi chỉ có vài bộ quần áo cũ, cùng lắm
họ điều mình đi nơi khác. Nhưng đây là con đường phải đi, không làm có tội với dân”, ông nói.

Sự quyết liệt của Chủ tịch ThaiBinh Seed khi đó đã thuyết phục được Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình Chu Văn Rỵ. Ông Rỵ gật đầu, kèm lời dặn “cách làm trái với cơ chế đang
vận hành, chúng ta có nguy cơ bị kỷ luật, nhưng khoán là việc phải làm”.

Sau một năm thực hiện đề án, sản lượng giống lúa của trại Đông Cơ tăng vọt lên 600 tấn, gấp 10 lần trước đó. Cùng thời điểm, sau Đại hội VI
(1986) khởi xướng Đổi mới, tháng 4/1988, Nghị quyết 10 (tức Khoán 10) ra đời, công nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giao đất cho người
cày. Trại Đông Cơ trở thành hình mẫu của Thái Bình, mô hình để cả nước học tập.

Trước đó, Chỉ thị 100 (1981) mới khoán đến đội sản xuất (gồm nhiều hộ nông dân), với phương thức “phát canh thu tô”. Tức là, hộ nông dân nhận phân, thuốc, giống lúa và nộp tô khi đến vụ.

Tới Khoán 10, kinh tế cá thể, tư nhân được công nhận. Nông dân được tự chủ sản xuất, hưởng thành quả trên mảnh ruộng của mình, đồng thời tự do lưu thông và mở rộng thị trường. Kết quả, sau một năm, Việt Nam từ chỗ phải dùng vàng đổi 200 tấn lương thực cứu đói (1988) đã có gạo dư để xuất khẩu.

Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trước năm 1986, Việt Nam mỗi năm phải nhập trên 1,5 triệu tấn gạo để bảo đảm an ninh lương thực. Sau Khoán 10, tình thế đảo ngược, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo, khép lại thời kỳ thiếu đói.

Tuy nhiên giai đoạn đầu, gạo xuất khẩu chủ yếu là phẩm cấp thấp, chưa có thương hiệu. Hệ thống sấy gạo, kho chứa lạc hậu, thất thoát cao. Cơ chế hạn ngạch và hợp đồng tập trung khiến doanh nghiệp thiếu linh hoạt, dễ bị ép giá.

Khoán 10 cứu ngành lúa gạo, mở đường cho rau quả, chăn nuôi, thủy sản bứt phá. Ngay cà phê, khi ấy mới manh nha, cũng bắt đầu vươn ra thế giới. Năm 1981, những chuyến cà phê xuất khẩu đầu tiên sang Liên Xô và Đông Âu theo hình thức trao đổi hàng hóa đã đặt nền móng cho ngành cà phê Việt.

Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhớ lại năm 1983, khi ông mới bước vào ngành đưa rau quả sang Liên Xô, cả nước chưa ai nghĩ tới chuyện xuất khẩu lương thực. Nhưng từ khi Khoán 10 ra đời, mọi thứ đổi thay. Năm 1992, những trái thanh long Việt lần đầu “xuất ngoại”, sang Đài Loan, mở ra thời kỳ mới. Từ vài tấn quả ban đầu lên đến hàng nghìn container mỗi năm.

“Chúng ta bắt đầu từ hợp tác xã nhỏ, nhà xưởng vài trăm người. Giờ đã có doanh nghiệp lớn, nhà máy hiện đại, chuỗi cung ứng đi khắp nơi”, ông Nguyên nói, thêm rằng thành công có được là nhờ Nhà nước trao quyền cho nông dân và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư.

Nông dân thu hoạch sầu riêng, Tiền Giang (cũ), tháng 11/2023. Ảnh: Hoàng Nam

Từ nền tảng Khoán 10, sản xuất lúa gạo tiếp tục mở rộng nhưng vẫn đối mặt tình trạng ruộng đất manh mún. Để khắc phục, mô hình cánh đồng mẫu
lớn được đẩy mạnh từ 2010, hợp nhất đất đai và ứng dụng giống mới, cơ giới hóa.

Ngành nông nghiệp bước vào giai đoạn chuyển đổi thứ hai, tập trung vào chất lượng và công nghệ. Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, cho rằng khoa học và công
nghệ, đặc biệt chọn tạo giống, trở thành động lực then chốt cho phát triển của nông nghiệp. Ngành đã hình thành bộ giống lúa chất lượng cao, đưa
năng suất bình quân cả nước vượt 6 tấn mỗi ha, gấp đôi Thái Lan, Ấn Độ.

Năng suất nhờ đó tăng 15-30% so với canh tác truyền thống, theo số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Chủ tịch ThaiBinh Seed Trần Mạnh Báo cho rằng công nghiệp giống phải là được ưu tiên số 1, bởi chúng quyết định quy trình canh tác, thay đổi chất lượng năng suất hay thích ứng với biến đổi khí hậu.

Chẳng hạn, giống TBR97 của công ty có thời gian sinh trưởng chỉ 95-100 ngày, chịu ngập úng tốt, phù hợp với khu vực Bắc Trung Bộ. Đặc biệt, giống nếp A Sào được phục tráng từ một giống gạo quý hiếm thời nhà Trần, chống chịu sâu bệnh tốt, cho chất lượng xôi dẻo, thơm ngon. Hiện ThaiBinh Seed chọn tạo thành công và được công nhận khoảng 30 giống cây trồng quốc gia.

Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch HĐQT ThaiBinh Seed, thăm nông dân tại vùng trồng thực nghiệm của Viện Nghiên cứu cây trồng, năm 2023. Ảnh: ThaiBinh Seed

Theo số liệu từ Cục Thống kê, tỷ lệ lúa chất lượng cao tăng từ 50% năm 2015 lên 74% vào 2020, giúp hơn 85% lượng gạo xuất khẩu thuộc phân khúc cao cấp. Năm 2019, giống ST25 của nhóm kỹ sư Hồ Quang Cua, Trần Tấn Phương và Nguyễn Thị Thu Hương được vinh danh “Gạo ngon nhất thế giới”, mở đường cho chiến lược chuyển từ bán gạo trắng giá rẻ sang gạo thơm, đặc sản, hữu cơ.

“Gạo Việt đã thoát khỏi lời nguyền giá rẻ, khẳng định vị thế cạnh tranh bằng chất lượng, thương hiệu trên bản đồ thế giới”, ông Bùi Bá Bổng nói.

Thành công này nhanh chóng lan tỏa. Ông Trương Văn Hùng, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Hưng Lợi (Sóc Trăng cũ), cho biết toàn bộ 522 xã viên
đã chuyển sang trồng gạo chất lượng cao, như giống ST25. “Năng suất không quá cao, nhưng giá bán tốt nhất nên bà con có lời”, ông nói.

Hiện giá lúa ST25 bán tại ruộng khoảng 8.750 đồng một kg, cao hơn 40-50% so với giống thường. Trung bình mỗi ha nông dân lãi 40-50 triệu đồng.
Thậm chí có vụ giá mỗi kg lên tới 12.000 đồng, giúp nông dân thu lời 70-80 triệu đồng một ha.

Năm 2023, gạo Việt lần đầu dẫn đầu thế giới về giá, vượt các đối thủ như Thái Lan, Ấn Độ. Xuất khẩu gạo đạt kỷ lục 9 triệu tấn vào năm ngoái,
đem về 5,7 tỷ USD, mức cao nhất lịch sử.

Thành công của hạt gạo là “lực đẩy” cho nhiều nông sản khác. Năm 2024, sầu riêng lần đầu vượt mốc 3 tỷ USD, cà phê giữ vị trí số 2 thế giới.
Trong khi đó, hạt điều, hồ tiêu, trái cây tươi đều góp mặt trong “câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD”.

Việt Nam đang thực hiện Đề án một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại đồng bằng sông Cửu Long – nơi cung cấp hơn 90% lượng gạo
xuất khẩu. Ông Bùi Bá Bổng gọi đây là bước tái định vị gạo Việt trên bản đồ thế giới, tận dụng “đỉnh cao cơ hội” của ngành.

Chương trình đặt mục tiêu giảm 10% chi phí, tăng 20% lợi nhuận, cắt giảm 10 triệu tấn CO2 mỗi năm. Tháng 6, lô 500 tấn gạo Japonica dán nhãn “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” xuất sang Nhật với giá 820 USD một tấn, đã phát tín hiệu tích cực.

Ông Bùi Bá Bổng nhận xét lúa gạo Việt đang bước vào kỷ nguyên “xanh và thịnh vượng”, tức là canh tác thông minh, gạo sạch, chất lượng cao, giúp gia tăng thu nhập và phát triển theo chuỗi tuần hoàn.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, hợp tác xã của ông Trương Văn Hùng đã chọn đi theo hướng này, với 50 ha. Mỗi ha canh tác chỉ cần sạ (gieo hạt
giống đã ươm) 60-70 kg giống thay vì 100 kg như trước, chi phí giảm và năng suất giữ nguyên. Giá lúa trồng theo mô hình này cũng cao hơn khoảng
700 đồng một kg, doanh nghiệp bao tiêu ổn định.

Cánh đồng lúa ở miền Tây, tháng 4/2024. Ảnh: Trần Thanh

Tuy vậy, thách thức vẫn ở phía trước. Ông Trần Mạnh Báo nhìn nhận nông sản Việt đối diện với thử thách ứng dụng công nghệ,
giống lúa mới và việc xây dựng một lớp nông dân “mới”. “Lớp nông dân mới cần là những người hiểu luật, nắm thị trường và ý thức được mình đang
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu”, ông nói.

Cùng với đó, hạ tầng logistics, bảo quản và chế biến sâu vẫn là những điểm cần tiếp tục đầu tư để nông sản Việt giữ vững vị thế.

TS. Đặng Kim Sơn đề xuất một tầm nhìn xa hơn, đưa Cần Thơ – vựa lúa của đồng bằng sông Cửu Long – trở thành trung tâm nông nghiệp thế giới,
hội tụ các viện nghiên cứu, khu công nghệ cao, nối thẳng ra cảng biển và sân bay. Theo ông, một cú hích hạ tầng đủ để nông sản Việt đi khắp năm
châu.

“Thị trường ngày càng đòi hỏi chất lượng, minh bạch và trách nhiệm môi trường. Muốn tồn tại chúng ta phải đầu tư nghiêm túc”, ông Đỗ Hà Nam
nhận xét.

Với Chủ tịch ThaiBinh Seed Trần Mạnh Báo, người gắn bó nửa thế kỷ với hạt lúa, câu chuyện lại trở nên đời thường. Ông nhớ lại năm 13 tuổi, nhìn theo bóng cha ra
biển với đôi kheo đánh cá, ông tự nhủ phải làm điều gì đó để nông dân bớt nhọc nhằn. Hơn nửa thế kỷ sau, khi nông dân từ chỗ cày sau con trâu nay
đã điều khiển drone trong canh tác, ông nói: “Không chỉ hạt gạo mà cả cà phê, hồ tiêu, trái cây, thủy sản cũng sẽ trở thành niềm kiêu hãnh của
Việt Nam trên bàn cờ toàn cầu”.

Thi Hà – Thủy Trương

Đồ họa: Phương Đông – Hoàng Khánh