
Ngân hàng tăng cho vay để đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế 8,3 – 8,5%, khi nền kinh tế có thêm tiền sẽ tăng mua sắm, đầu tư, gây sức ép lên giá cả. Vì vậy tăng cho vay phải song hành với kiểm soát giá ở mức hợp lý. Trong ảnh: người dân mua sắm ở siêu thị – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Đồng thời giao Bộ Tài chính xây dựng kịch bản tăng trưởng những tháng cuối năm theo chỉ tiêu đã giao trước ngày 15-8.
Các chuyên gia khuyến nghị cần có giải pháp cân bằng để bảo đảm ổn định vĩ mô, thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm. Có như vậy việc tác động của tăng tín dụng mới hỗ trợ được tăng trưởng bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Sức ép lạm phát đến đâu?
Bàn về sức ép tăng lạm phát khi nới tín dụng ngân hàng, TS Nguyễn Bích Lâm, nguyên tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), nêu quan điểm: “Có thể thấy đa số người dân vẫn trong trạng thái chắt chiu, chi tiêu dè sẻn vì thu nhập cơ bản không tăng”.
Ông Lâm kể một quản lý của Co.opmart tính toán để tổng mức bán lẻ năm nay tăng 12% thì những mặt hàng của hệ thống siêu thị này phải tăng 18 – 20%. Nhưng các mặt hàng bán lẻ của hệ thống siêu thị Co.opmart, theo vị này, năm nay chỉ tăng tối đa 14 – 15%.
Bên cạnh đó, một số khảo sát tiêu dùng thời gian qua ghi nhận quan tâm đầu tiên của người tiêu dùng là nguồn tài chính có hay không để chi tiêu. Nói cách khác, tài chính của nhiều hộ gia đình hiện nay eo hẹp nên họ chưa thể mở rộng chi tiêu được.
“Vì thế, tổng cầu năm nay rất khó tăng mạnh nên áp lực lạm phát sẽ không quá lo ngại, còn lạm phát từ yếu tố tiền tệ sẽ có độ trễ”, ông Lâm cho biết thêm.
Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Quốc Việt, nguyên phó viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho rằng áp lực lạm phát hiện nay không phải lạm phát thông thường (bao gồm giá thực phẩm, năng lượng thường xuyên biến đổi).
Vấn đề nhiều người lo ngại khi “bơm tiền” ra lúc này là tỉ giá của VND so với USD và ngoại tệ của một số nước trong khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore, tiền đồng có xu hướng mất giá khá nhiều so với cùng kỳ 2024.
Trong khi nền sản xuất của chúng ta phụ thuộc nhập khẩu nguyên, phụ liệu đầu vào khá lớn nên gặp bất lợi tỉ giá.
Trong bối cảnh này, ông Việt cho rằng vẫn phải thận trọng bởi khi áp lực mất giá đồng nội tệ đến một mức nào đó sẽ đẩy vào giá cả hàng hóa tăng.
Đây là chi phí đẩy khi nền sản xuất của chúng ta nhập khẩu nguyên, nhiên liệu đầu vào lớn. Ngoài nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu, chúng ta còn nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng trong nước, làm tăng áp lực lạm phát.
Ngoài ra, ông Việt lưu ý nếu tín dụng tăng nhưng không vào sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực sản xuất nội địa, sẽ có nguy cơ tạo bong bóng tài sản, bong bóng bất động sản, găm giữ vàng và USD… gây áp lực lên tỉ giá từ nay đến cuối năm.
Khi xuất hiện bong bóng tài sản thì một số hàng hóa trong rổ CPI (lạm phát) sẽ tăng theo, gây áp lực lạm phát cuối năm.
“Ví dụ như bong bóng bất động sản đã gây áp lực làm tăng giá thuê nhà, người thuê phải chịu áp lực lớn hơn, phải bỏ nhiều tiền hơn để thuê nhà hằng tháng. Tháng 7 vừa qua nhóm hàng hóa – dịch vụ xây dựng, sửa chữa, thuê nhà đã tăng lên, tác động làm tăng lạm phát”, ông Việt dẫn chứng.

Nhà đầu tư xem dự án bất động sản tại Đồng Nai – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Vốn phải vào sản xuất
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam, cho rằng trong bối cảnh hiện nay chúng ta không nên quay lại mô hình tăng trưởng 2007 – 2009, không nên dựa quá nhiều vào vốn.
Khi đó, chúng ta ép tăng tín dụng 40% để có tăng trưởng cao, nhưng thời điểm hiện nay cần rất thận trọng với rủi ro bất ổn vĩ mô, mất giá đồng tiền.
Điều quan trọng nhất lúc này là tăng trưởng tín dụng phải đi vào sản xuất, tiếp vốn cho lĩnh vực kinh tế thực.
Tăng trưởng tín dụng năm nay có thể lên tới 20% nhưng phải đi vào sản xuất, giải quyết được bài toán vốn cho sản xuất, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Trong khi đó, TS Nguyễn Bích Lâm nói nếu nới trần tín dụng để thúc tăng trưởng kinh tế thì có thể sẽ phải đánh đổi, chấp nhận lạm phát ở mức cao hơn mục tiêu 4,5% đề ra. Rất khó để cùng một lúc đạt được cả hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và giữ lạm phát thấp đúng mục tiêu đề ra.
Điều ông Lâm lo ngại là khu vực sản xuất thực không hấp thụ vốn như kỳ vọng khi hệ thống ngân hàng nới tăng trưởng tín dụng.
“Nếu đưa được tín dụng vào sản xuất thì mức tăng trưởng tín dụng 16% mà Ngân hàng Nhà nước đề ra hồi đầu năm cũng là một thành công.
Ngược lại, để tín dụng chảy vào các lĩnh vực khác như đầu tư bất động sản, chứng khoán, vàng thì rất dễ đạt được mục tiêu tăng tín dụng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro vĩ mô”, ông Lâm nhận định.
Từ góc độ vĩ mô, ông Lâm chia sẻ tổng cầu của nền kinh tế trong nước và thế giới từ đầu năm đến nay phục hồi chậm, chưa như kỳ vọng nên nhu cầu mở rộng sản xuất của doanh nghiệp trong nền kinh tế không lớn.
Như vậy, nhu cầu vay tín dụng để sản xuất của doanh nghiệp lúc này nhiều khả năng không cao.

Nguồn: Cục Thống kê, Bộ Tài chính – Đồ họa: TẤN ĐẠT
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng:
Ưu tiên ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng bền vững
Mặt bằng lãi suất cho vay hiện nay tiếp tục giảm khoảng 0,4%/năm so với cuối năm 2024 cho thấy những nỗ lực điều hành linh hoạt, hỗ trợ giảm chi phí tài chính cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tỉ giá đang chịu áp lực khá lớn do tác động kép từ yếu tố kinh tế và tâm lý thị trường.
Tính đến nay, tỉ giá VND/USD đã tăng 2,9% so với cuối năm 2024. Nếu áp lực tiếp tục tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước sẽ cân nhắc không tiếp tục giảm lãi suất để tránh ảnh hưởng đến ổn định tỉ giá, gây bất ổn vĩ mô.
Ngân hàng Nhà nước sẽ theo dõi sát diễn biến, tùy từng giai đoạn mà đặt ưu tiên phù hợp, hướng tới mục tiêu chung là ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững.
Bà Nguyễn Thị Hương (cục trưởng Cục Thống kê):
Áp lực lạm phát từ giá nhà ở, vật liệu xây dựng
Chỉ số CPI (lạm phát) liên quan trực tiếp đến ăn, mặc, ở và các dịch vụ thiết yếu như đi lại, viễn thông, giáo dục, y tế. Trong 11 nhóm hàng hóa của rổ CPI hiện nay thì nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng chịu áp lực tăng lớn vì giá nhà đất tăng cao trong thời gian qua.
Bên cạnh đó, nếu giá xăng dầu tăng trong những tháng cuối năm sẽ tác động lớn tới lạm phát cả năm vì đây là nhiên liệu đầu vào cho sản xuất, vận tải.
Đối với nhóm hàng hóa có tỉ trọng lớn nhất (chiếm khoảng 1/4) trong rổ hàng hóa CPI là lương thực, thực phẩm thì chúng ta chủ động kiểm soát được.
Trước ngày 15-8: xây dựng kịch bản tăng trưởng mới
Ngày 5-8-2025, Chính phủ ban hành nghị quyết số 226/NQ-CP (nghị quyết 226) về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực, địa phương và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Theo đó, Chính phủ phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8,3 – 8,5%, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI (lạm phát) bình quân năm 2025 dưới 4,5%, tổng đầu tư toàn xã hội năm 2025 tăng 11 – 12%.
Đồng thời giao Ngân hàng Nhà nước nắm chắc tình hình và điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, đồng bộ chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác; ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, quyết liệt, chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát.
Chính phủ cũng giao Bộ Tài chính xây dựng kịch bản tăng trưởng những tháng cuối năm theo chỉ tiêu đã giao trước ngày 15-8.
Chuyên gia kinh tế Đinh Tuấn Minh:
Đồng tiền “có chân”

Khách hàng giao dịch trong một ngân hàng tại TP.HCM – Ảnh: Q.ĐỊNH
Trong bối cảnh này, chúng ta hướng kiểu gì thì dòng vốn vẫn chuyển vào những nơi người ta thấy có cơ hội phát triển, gắn liền với cơ sở hạ tầng mới đầu tư. Và đương nhiên bất động sản sẽ là cái đầu tiên nhiều người nghĩ tới. Nếu có một con đường mới chạy qua nhà thì ai cũng có thể nghĩ tới việc vay vốn đầu tư một khách sạn, nhà nghỉ.
Và để kiểm soát dòng tiền vào nền kinh tế thì chỉ có một cách duy nhất là thông qua giám sát của hệ thống ngân hàng, với điều kiện nguồn tín dụng đi đúng.
Nhưng thực tế dòng tín dụng nhiều khi vay chỗ này có thể chảy sang chỗ khác, chẳng hạn vay sản xuất nhưng lại chuyển sang đầu tư mua bất động sản.
Đó là chuyện dòng tiền nó chạy, anh có thể kiểm soát, hạn chế được chỗ này, chỗ kia, nhưng ngay cả khi chúng ta hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh thì nó có thể vẫn “chảy sang” bất động sản và các kênh đầu tư chứng khoán, vàng.
Ví dụ chúng ta không cho ngân hàng huy động USD thì người dân có thể vẫn “lách” bằng nhiều cách, chẳng hạn mang USD đến ngân hàng, sau đó ngân hàng thỏa thuận với người có USD vay một khoản tiền VND tương đương giá trị USD với lãi suất thấp, sau đó dùng chính khoản tiền đồng đó gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất thương mại. Bản chất vẫn là người dân cho ngân hàng vay USD.

Chuyên gia kinh tế Đinh Tuấn Minh
Đồng tiền “có chân” nên không có giải pháp nào có thể hướng tín dụng vào một mục đích duy nhất là sản xuất kinh doanh.
Về mặt sổ sách, giấy tờ có thể kiểm soát nhưng chỉ hạn chế được phần nào.
Vì vậy, lúc này nên tập trung vào mục tiêu lớn là huy động được dòng vốn từ bên ngoài cho nền kinh tế thông qua thu hút đầu tư FDI, vay vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế.
Việc Chính phủ chủ trương nới tăng trưởng tín dụng lên 18 – 20% cho thấy nền kinh tế đang cần vốn.
Đây là tín hiệu tích cực cho thấy người dân, doanh nghiệp đều nhìn thấy cơ hội kinh doanh, nhu cầu huy động vốn cao.
Hơn nữa, trong bối cảnh Chính phủ đang đầu tư nhiều dự án hạ tầng dài hạn, đòi hỏi vốn lớn thì cần huy động các doanh nghiệp tư nhân có năng lực chung tay, cùng tham gia đầu tư.
Bản chất tín dụng là huy động tiền tiết kiệm trong dân, trong khi tiết kiệm trong nước có hạn nên khi có cơ hội kinh doanh ai cũng có nhu cầu vay vốn thì nguồn tín dụng trong nước sẽ thiếu, không đáp ứng được.
Nếu chỉ dùng vốn trong nước để đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, không tìm thêm nguồn vốn từ bên ngoài sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn, lãi suất tăng cao, lạm phát cao, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ rất khó tiếp cận vốn.
Nền kinh tế dễ lặp lại kịch bản năm 2008; nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn, không cầm cự được, phải rời bỏ thị trường.
Vấn đề của chúng ta hiện nay là ngay cả trong đầu tư công, đầu tư những công trình lớn vẫn phải nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu rất lớn từ bên ngoài, nhu cầu USD rất lớn.
Vì thế, nếu không huy động thêm dòng ngoại tệ từ bên ngoài thì áp lực tỉ giá cũng sẽ lớn hơn, đẩy chi phí lên cao, gây áp lực ngược lại với giá cả trong nước.