Thảm án trên tàu cá 33 thuyền viên, chỉ 11 người trở về

Trung QuốcBất mãn vì công việc nặng nhọc mà lương thấp, hai kẻ nổi loạn cầm đầu nhóm thuyền viên lên kế hoạch cướp tàu, sát hại 16 người và khiến 6 người mất tích.

Ngày 27/12/2010, tàu cá Lỗ Vinh Ngư 2682 của Công ty TNHH Thực phẩm Thủy sản Hâm Phát chở 33 thuyền viên rời bến ở Thạch Đảo, thành phố Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông.

Lỗ Vinh Ngư 2682 là tàu câu mực đại dương, dài 30-40 m, hoạt động ngoài khơi từ năm 2000. Điểm đến của chuyến hải trình này là vùng biển Đông Nam Thái Bình Dương.

Thuyền trưởng Lý Thừa Quyền, 42 tuổi, quê tỉnh Liêu Ninh, tạm thời tuyển dụng 32 thuyền viên đến từ nhiều tỉnh thành, bao gồm các thương nhân làm ăn thua lỗ, sinh viên mới tốt nghiệp, lao động nhập cư… Hầu hết đều ôm suy nghĩ đi một chuyến để kiếm tiền nhanh, không hiểu rõ công việc này vốn chẳng hề nhẹ nhàng.

Ngày 25/7/2011, Công ty Hâm Phát nhận được tín hiệu cầu cứu từ Lỗ Vinh Ngư 2682, lập tức yêu cầu hỗ trợ từ các cơ quan có thẩm quyền. Ngày 29/7, Tàu Ngư Chính 118 của Trung Quốc đến vùng biển Lỗ Vinh Ngư 2682 gặp nạn, kéo con tàu bị ngập cabin trở về vào ngày 12/8/2011. Sau đó, 11 người còn sống sót trên tàu bị bắt, làm sáng tỏ bí ẩn về vụ thảm án ngoài khơi.

Từ lòng tham đến thế ‘tiến thoái lưỡng nan’

Theo phán quyết của TAND trung cấp thành phố Uy Hải, từ ngày 17/6 đến ngày 25/7/2011, trong khi Lỗ Vinh Ngư 2682 hoạt động đánh bắt tại vùng biển gần Chile, một số thuyền viên bất mãn với giờ làm việc dài, cường độ cao và mức lương thấp nên đã lên kế hoạch cướp tàu, muốn quay trở lại Trung Quốc để yêu cầu công ty giải thích. Tuy nhiên, do mâu thuẫn nội bộ và các yếu tố khác, vụ cướp tàu đã trở thành cuộc chiến đẫm máu trên biển.

Theo hợp đồng, các thuyền viên phải ở trên biển trong suốt hai năm, công việc chính là câu mực, sau đó đóng gói và đông lạnh.





Thuyền viên trên tàu câu mực đại dương. Ảnh minh họa

Thuyền viên trên tàu câu mực đại dương. Ảnh minh họa

Lưu Quý Đoạt, 27 tuổi, quê tỉnh Hắc Long Giang, cùng Bao Đức, người Nội Mông, là chủ mưu vụ cướp tàu. Cả hai cấu kết với Khương Hiểu Long, Lưu Thành Kiến, Hoàng Kim Ba và những người khác, quyết định thực hiện vụ cướp sau khi tàu cá được tiếp nhiên liệu tại vùng biển Chile vào tối 16/6/2011.

Lý Mai Cẩn, giáo sư tâm lý tội phạm tại Đại học Công an Trung Quốc, giải thích rằng trong các vụ án có nhiều người cùng phạm tội, thường phải phân biệt giữa chủ mưu và đồng phạm, vì tâm lý của họ khác nhau. “Một số thành viên ban đầu gia nhập nhóm của Đoạt và Đức bị thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân, nghĩ rằng đi theo hai người đó thì có thể kiếm được nhiều tiền hơn”, giáo sư Lý nói.

Mã Ngai, giáo sư tại Học viện Xã hội thuộc Đại học Chính Pháp Trung Quốc, đồng thời là phó chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Tội phạm, cho biết những kẻ cầm đầu đã lợi dụng nhu cầu chung của một số thuyền viên: được về nhà càng sớm, càng nhanh càng tốt. Khối lượng công việc nặng và mức lương thấp đã khơi dậy cảm giác bất mãn chung về điều kiện làm việc và phúc lợi, cũng như lòng oán hận thuyền trưởng.

“Họ đã tự hợp lý hóa kế hoạch cướp tàu bằng cách cho rằng thuyền trưởng phải chịu trách nhiệm và lập luận rằng: Chúng tôi cực chẳng đã mới phải làm thế. Họ tin rằng mình có lý do chính đáng và đưa ra quyết định phạm tội bằng cách phủ nhận trách nhiệm, nhấn mạnh lỗi lầm của đối phương nên những người tham gia kế hoạch không hề cảm thấy tội lỗi”, giáo sư Mã nói.

Khoảng 23h ngày 16/6/2011, Đoạt chỉ thị cho Ba và Vương Bằng phá hoại, vô hiệu hóa hệ thống thông tin liên lạc và định vị của tàu. Họ cầm dao, gậy xông vào phòng thuyền trưởng, khống chế và uy hiếp phải đổi lộ trình về Trung Quốc.

Bếp trưởng Hạ Kỳ Dũng phát hiện sự việc nên cầm dao chống trả, bị Long đâm ngã xuống sàn, đánh bằng gậy rồi ném xuống biển. Cái chết của Dũng mở màn cho chuỗi thảm sát sau đó.

“Nếu không thu tay lại kịp thời khi lần đầu làm hại người khác, càng về sau họ sẽ càng không có cơ hội phản kháng. Vì anh đã giết người, kẻ chủ mưu sẽ lợi dụng điều này để đe dọa anh phải nghe theo dù muốn hay không, những đồng phạm sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan”, giáo sư Lý phân tích.

Cuộc chiến sinh tồn trên biển

Theo giáo sư Mã, vụ án này ngay từ đầu là hoạt động phạm tội có chủ đích, rõ ràng có sự chuẩn bị về mặt tâm lý và hành vi cho việc sử dụng bạo lực. Dù mục tiêu là cướp tàu, nhưng kế hoạch, công cụ và phân công của họ rõ ràng đã bao gồm các phương án dự phòng đối với việc bị phản kháng.

Sau vụ giết người đầu tiên, tính chất sự việc thay đổi. “Họ biết rằng giết người là phạm tội và lo sợ pháp luật trừng phạt, nhu cầu trốn tránh pháp luật giờ đóng vai trò trong hành động của họ. Nếu động cơ của vụ cướp tàu là lợi ích, thì những hành động sau vụ giết người đều vì mục đích bảo toàn bản thân”, giáo sư Mã nói.

Đối mặt với tình hình có người bị giết và bản thân đang bị uy hiếp, thuyền trưởng cũng có sự chuyển biến về tâm lý. Cáo trạng nêu Lý Thừa Quyền, Thôi Dũng và Đoàn Chí Phương vì muốn giữ mạng đã chủ động gia nhập nhóm của Đoạt.

Hơn một tháng sau án mạng đầu tiên, Đoạt và đồng bọn nghi ngờ có người muốn “tạo phản”. Họ phát hiện kỹ sư trưởng Ôn Đấu cố tình phá hoại thiết bị trên tàu, mức tiêu thụ nhiên liệu đột ngột tăng gấp vài lần mỗi ngày. Do đó, họ lập ra cái gọi là “danh sách đen”, lần lượt gọi sáu người bị cho là có ý đồ chống đối ra khỏi phòng và xử tử. Ba người khác vốn không có tên trong danh sách cũng bị sát hại.

Ngay cả Đoạt và Đức, hai kẻ bắt tay kết bè từ đầu, cũng nghi ngờ lẫn nhau. Cuối cùng, Đoạt giết hết thuyền viên trong nhóm Đức.

Giáo sư Mã giải thích sau khi thảm sát bắt đầu, mọi người trên tàu đều ở trong trạng thái căng thẳng và lo lắng tột độ. Điều này không chỉ dẫn đến suy nghĩ và quyết định thiếu lý trí mà còn khiến con người bị chi phối bởi tâm lý phòng bị, dễ phóng đại nguy hiểm, nảy sinh hoài nghi và sợ hãi người khác. Trong tình huống mọi người đều bất an, cảnh giác, đấu tranh sinh tử trở thành cách tốt nhất để tự bảo vệ.

Trong chuỗi án mạng, hung thủ không còn cảm thấy sợ hãi như lần đầu “giết người”, ngay cả những người tay không dính máu cũng bị ép phải phạm tội. Hung thủ thậm chí còn chấp nhận hành vi giết người của chính mình.

Theo giáo sư Mã, sự thay đổi tâm lý này trước hết có liên quan đến tình cảnh lúc bấy giờ. Tàu cá đánh bắt xa bờ lẻ loi trên đại dương, diện tích hạn chế, thiếu sự hỗ trợ từ bên ngoài, việc thích nghi với môi trường hiện tại trở thành lựa chọn duy nhất. Thứ hai, nhiều kẻ tham gia có thể cho rằng vì mọi người đều liên quan nên sẽ không ai báo cáo vụ án. Thứ ba, áp lực bị đe dọa tính mạng dẫn đến hành vi bầy đàn. Cuối cùng, nó có liên quan đến sự phân cực nhóm. Trong tâm lý xã hội học, phân cực nhóm là hiện tượng khi thảo luận trong nhóm, mọi người thường có xu hướng đưa ra những quyết định cực đoan hơn so với quyết định ban đầu của từng cá nhân, thiên về một thái cực mạo hiểm hoặc bảo thủ và do đó đi chệch khỏi quyết định tối ưu.

Phạm tội hay không do ‘phẩm chất’ con người

Dù môi trường biệt lập và khép kín của những tàu đánh cá xa bờ khuếch đại cảm xúc của tội phạm ở một mức độ nhất định, giáo sư Lý tin rằng việc có phạm tội hay không phụ thuộc vào “phẩm chất” của chính người đó.

“Ngay cả trong những hoàn cảnh cực đoan, con người vẫn có sức mạnh kiên trì vì chính nghĩa”, giáo sư Lý nói. Ông tin rằng nếu trong những đồng phạm đó có 1-2 kẻ có chút ý thức về pháp luật, có đầu óc lý trí và có chút tố chất lãnh đạo, họ đã có thể sử dụng những biện pháp đường vòng để giải quyết nguy cơ. Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực khống chế thuyền viên cầm đầu nổi loạn, tình hình sẽ không đến mức mất kiểm soát.

Tuy nhiên, phần lớn thuyền viên là người mới vào nghề và còn trẻ. Giáo sư Lý cho rằng suy nghĩ của họ khá đơn giản, hấp tấp nên khi đối mặt với tình huống như vậy sẽ khó có năng lực kiểm soát tình hình.

“Những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn không chỉ bị thúc đẩy bởi lòng tham; động cơ phạm tội của họ rõ ràng, là hành vi cố ý giết người có mưu đồ từ trước. Những tội phạm này về bản chất đã là kẻ không từ thủ đoạn, đó là lý do chúng trở thành chủ mưu”, giáo sư Lý nói. Theo ông, một khi có “thủ lĩnh” như vậy xuất hiện trong một nhóm tội phạm, những kẻ khác chỉ có thể khuất phục.





Lưu Quý Đoạt (trái) và Lý Thừa Quyền. Ảnh: Sohu

Lưu Quý Đoạt (trái) và Lý Thừa Quyền. Ảnh: Sohu

Bước ngoặt xảy đến khi phòng máy bị ngập nước khiến tàu nghiêng vào rạng sáng 25/7/2011. Một số thuyền viên nhân lúc hỗn loạn cố chạy trốn nhưng bị nhóm Đoạt ép nhảy xuống biển, mất tích. Nhóm Đoạt định tìm cách trốn sang Nhật Bản, vờ bị bắt cóc để tránh điều tra. Tuy nhiên, tàu bị rò rỉ khiến họ buộc phải bật lại thiết bị liên lạc và hệ thống định vị để gọi cứu hộ.

Ngày 19/7/2013, TAND trung cấp thành phố Uy Hải, tỉnh Sơn Đông ra phán quyết sơ thẩm đối với 11 bị cáo trong vụ án giết người và cướp tàu đặc biệt nghiêm trọng trên tàu cá Lỗ Vinh Ngư 2682.

Năm thủ phạm chính là Lưu Quý Đoạt, Khương Hiểu Long, Lưu Thành Kiến, Hoàng Kim Ba và Lý Thừa Quyền bị tuyên án tử hình. Vương Bằng nhận án tử hình treo, năm bị cáo còn lại bị phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn.

Ngày 21/1/2015, TAND cấp cao tỉnh Sơn Đông bác đơn kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Năm bị cáo bị thi hành án tử vào ngày 23/3/2017.

Tuệ Anh (theo China Science Daily, The Paper, ifeng)